Những vấn đề liên quan đến giám hộ theo pháp luật? Quy định về việc xin thay đổi người giám hộ đương nhiên theo Bộ luật dân sự năm 2015?
Theo quy định của pháp luật trong lĩnh vực dân sự cụ thể trong
Luật sư
1. Những vấn đề liên quan đến giám hộ theo pháp luật?
Điều 46
“Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này (sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ).”
Trong Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về người được giám hộ là người chưa thành niên có thể là chưa đủ 15 tuổi hoặc từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi và người mất năng lực hành vi dân sự vì trong pháp luật đối với các giao dịch dân sự thì người đủ điều kiện tham gia giao dịch dân sự phải là người thành niên từ đủ 18 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự để chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình. Chính vì vậy, pháp luật ban hành điều kiện để được giám hộ như vậy.
Đối với điều kiện là người giám hộ cho người được giám hộ pháp luật không quy định chặt chẽ nhưng phải là người có điều kiện đẩy đủ năng lực hành vi dân sự chịu trách nhiệm giám hộ, tuân thủ và có các điều kiện cần thiết khác như có phẩm chất đạo đức tốt thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong chăm sóc, giáo dục, quản lý tài sản của người được giám hộ; , không nằm trong trường hợp đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị kết án nhưng chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác và không phải người bị Tòa án tuyên hạn chế quyền đối với con chưa thành niên theo quy định tại Điều 49 Bộ luật dân sự năm 2015.
Về hình thức giám hộ được quy định có hai hình thức chính đó là đăng ký giám hộ đương nhiên đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự và cử, chỉ định giám hộ trong trường hợp không xác lập được những mối quan hệ thân thiết trong gia đình làm người giám hộ đương nhiên. Theo đó, người thân thích của người được giám hộ thỏa thuận cử người giám sát việc giám hộ trong số những người thân thích hoặc chọn cá nhân, pháp nhân khác làm người giám sát việc giám hộ. Việc cử, chọn người giám sát việc giám hộ phải được sự đồng ý của người đó và trong trường hợp giám sát việc giám hộ liên quan đến quản lý tài sản của người được giám hộ thì người giám sát phải đăng ký tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ được thực hiện bởi quy định về giám sát người giám hộ tại Điều 51 Bộ luật dân sự năm 2015.
Từ việc xác lập giám sát việc giám hộ thì mọi hoạt động khác trong giám hộ sẽ thực hiện dưới sự giám sát này cụ thể như việc xin thay đổi người giám hộ đương nhiên hoặc chuyển giao quyền giám hộ cho người giám hộ mới..
2. Quy định về việc xin thay đổi người giám hộ đương nhiên theo Bộ luật dân sự năm 2015?
Tóm tắt câu hỏi:
Chị L và anh H là vợ chồng. Chị L bị bệnh nhưng anh h không chăm lo quan tâm vợ con mà chung sống với người khác có con riêng là cháu X. 3 năm sau chị L bị Tòa tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. Mẹ chị L đã có đơn xin thay đổi người giám hộ đương nhiên, tuy nhiên cho tới nay vẫn không có cơ quan nào giải quyết cho bà. Tư vấn cho mẹ chị L để bà bảo vệ quyền lợi của chị L?
Luật sư tư vấn:
Theo thông tin bạn cung cấp chị L bị tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, anh H là chồng của chị L. Theo quy định tại Điều 52 Bộ luật dân sự 2015 về người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự như sau:
“Người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật này được xác định theo thứ tự sau đây:
1. Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người giám hộ.
2. Trường hợp không có người giám hộ quy định tại khoản 1 Điều này thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ.
3. Trường hợp không có người giám hộ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ.”
Theo điều luật trên thì người được giám hộ quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định người được giám hộ thuộc vào trường hợp người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ.
Theo đó, bạn có trình bày là chị L và anh H là vợ chồng hai người tồn tại quan hệ vợ chồng do đó trường hợp chị L bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự thì theo quy định của pháp luật thì anh H sẽ là người giám hộ đương nhiên của chị L.
Tại khoản 1 Điều 57 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ mất năng lực hành vi dân sự như sau:
Người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự có các nghĩa vụ sau đây:
“+ Chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ;
+ Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự;
+ Quản lý tài sản của người được giám hộ;
+ Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.“
Do đó, vì anh H là người giám hộ đương nhiên của chị L nên anh H có các nghĩa vụ như trên. Tuy nhiên anh H lại không chăm sóc cho chị L mà lại chung sống với người khác người phụ nữ khác.
Theo quy định tại Điều 60 Bộ luật dân sự 2015 quy định về thay đổi người giám hộ như sau:
“1. Người giám hộ được thay đổi trong trường hợp sau đây:
a) Người giám hộ không còn đủ các điều kiện quy định tại Điều 49, Điều 50 của Bộ luật này;
b) Người giám hộ là cá nhân chết hoặc bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, mất năng lực hành vi dân sự, mất tích; pháp nhân làm giám hộ chấm dứt tồn tại;
c) Người giám hộ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ giám hộ;
d) Người giám hộ đề nghị được thay đổi và có người khác nhận làm giám hộ.
2. Trường hợp thay đổi người giám hộ đương nhiên thì những người được quy định tại Điều 52 và Điều 53 của Bộ luật này là người giám hộ đương nhiên; nếu không có người giám hộ đương nhiên thì việc cử, chỉ định người giám hộ được thực hiện theo quy định tại Điều 54 của Bộ luật này.
3. Thủ tục thay đổi người giám hộ được thực hiện theo quy định của pháp luật về hộ tịch“.
Căn cứ vào quy định của pháp luật có thể thấy, mục đích của việc giám hộ là nhằm bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục người được giám hộ. Do đó, về nguyên tắc khi không đáp ứng mục đích này thì cần thay đổi người giám hộ. Người giám hộ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ giám hộ có thể là không chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ trong trường hợp người đó bị bệnh tâm thần, hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình; không quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của chính mình hoặc sử dụng tài sản của người được giám hộ như tài sản của chính mình hoặc sử dụng tài sản của người được giám hộ vào mục đích khác ngoài mục đích chăm sóc, chi dùng cho những nhu cầu cần thiết của người được giám hộ. Trong trường hợp của của Chị L bị tòa tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, anh H là chồng nhưng không thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ là không chăm sóc chị L, do đó anh H vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của người giám hộ, vì vậy đó sẽ là căn cứ để thay đổi người giám hộ.
Bộ luật dân sự năm 2015 quy định người giám hộ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ là căn cứ để thay đổi người giám hộ. Vì vậy mẹ chị L có thể làm đơn khởi kiện yêu cầu thay đổi người giám hộ tới Tòa án nhân dân để được giải quyết.