Nhóm pháp luật và cơ chế quốc tế về bảo đảm quyền con người liên quan đến đạo đức sinh học.
Ngày càng có nhiều ứng dụng khoa học vượt ra ngoài biên giới quốc gia và sự cần thiết của việc thiết lập các hướng dẫn đạo đức phổ quát bao gồm tất cả các vấn đề đặt ra trong lĩnh vực đạo đức sinh học và nhu cầu thúc đẩy các giá trị được chia sẻ ngày càng trở thành tiêu điểm trong các cuộc tranh luận quốc tế. Nhu cầu về hành động thiết lập tiêu chuẩn trong lĩnh vực đạo đức sinh học dần nóng lên trên toàn thế giới, thường được thể hiện bởi các nhà khoa học và các nhà ứng dụng cũng như các nhà lập pháp và người dân. Trong khi nhiều quốc gia đã đóng khung các luật và quy định nhằm bảo vệ nhân phẩm và các quyền và tự do của con người, thì nhiều quốc gia khác lại mong muốn thiết lập các tiêu chuẩn và đôi khi thiếu phương tiện để làm như vậy. Do đó, theo yêu cầu của các Quốc gia thành viên, các cuộc tham vấn và điều trần trên diện rộng về vấn đề đạo đức sinh học đã được tổ chức với có sự tham gia của các quốc gia của Liên Hợp quốc, các cơ quan chuyên môn khác của hệ thống Liên Hợp quốc, các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và các cơ quan – chuyên gia quốc gia thích hợp.
Các vấn đề đạo đức liên quan đến những tiến bộ trong khoa học đời sống và các ứng dụng của chúng đã, đang và sẽ còn mang tính thời sự cao. Do vậy, để hiểu nguồn gốc hình thành và quá trình phát triển của chúng trong nền tảng văn hóa, xã hội và triết học của các cộng đồng khác nhau thì chỉ tổ chức có các lĩnh vực năng lực bao gồm khoa học xã hội và nhân văn, đúng với thiên chức của mình, mới đi đầu trong việc đưa ra các sáng kiến, giải pháp. Đó chính là lý do mà Liên Hợp quốc đã giao trọng trách cho Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp quốc (UNESCO) nghiên cứu kỹ thuật và pháp lý liên quan đến xây dựng các chuẩn mực chung về đạo đức sinh học.
Mâu thuẫn giữa điều gì khả thi và điều gì có thể chấp nhận được, và giữa việc sử dụng kiến thức đúng hay sai, bởi vì mặc dù kiến thức luôn tích cực nhưng ứng dụng của chúng có thể không. Vì sự bất an mà tiến bộ trong khoa học sự sống và đặc biệt là di truyền học đang gây ra trên toàn thế giới, với tầm nhìn xa sáng suốt và có trách nhiệm, UNESCO đã thành lập Ủy ban Đạo đức Sinh học Quốc tế (IBC) vào năm 1993, Ủy ban Đạo đức Sinh học Liên chính phủ (IGBC) và Ủy ban thế giới về Đạo đức của Tri thức Khoa học và Công nghệ (COMEST) cũng vào năm 1998 để giải quyết chính xác vấn đề có thể được chấp nhận trong việc nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ sinh học và những thách thức đạo đức đang nổi lên liên quan đến cuộc sống của toàn nhân loại.
UNESCO đã đóng góp vào việc xây dựng các nguyên tắc cơ bản trong đạo đức sinh học nhằm bảo vệ quyền con người. Có thể nói rằng thành tựu lớn nhất của Chương trình là việc các Quốc gia thành viên của UNESCO thông qua các tuyên bố sau đây trong các phiên họp của Đại Hội đồng của mình, cụ thể: “Tuyên bố chung về bộ gen người và quyền con người”, được Đại Hội đồng nhất trí và hoan nghênh vào năm 1997 và được Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1998; “Tuyên bố quốc tế về dữ liệu di truyền người”, đã được Đại Hội đồng nhất trí thông qua năm 2003; và đặc biệt là “Tuyên ngôn chung về Đạo đức Sinh học và quyền con người” (viết tắt là UDBHR) vào năm 2005. Tính đến thời điểm hiện tại đây là ba công cụ pháp lý quốc tế duy nhất liên quan đến đạo đức sinh học trên toàn thế giới. Các Tuyên bố đã ghi nhận những tiêu chuẩn hành động về đạo đức sinh học cụ thể:
Mục lục bài viết
1. Tuyên bố chung về bộ gen người và quyền con người (1997):
Căn cứ vào Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (1948), hai Công ước quốc tế của Liên Hợp quốc về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội, cùng với các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và một loạt các công ước, các tuyên bố, văn kiện quốc tế có liên quan khác được Liên Hợp quốc và các cơ quan chuyên môn của Liên Hợp quốc thông qua. Tuyên bố chung về bộ gen người và quyền con người đã được nhất trí thông qua và được hoan nghênh tại Đại hội đồng lần thứ 29 của UNESCO vào ngày 11 tháng 11 năm 1997, và đã được Đại hội đồng Liên Hợp quốc thông qua trong năm 1998.
Tuyên bố đã công nhận rằng nghiên cứu về bộ gen người và các kết quả của việc ứng dụng nó đã mở ra triển vọng rộng lớn cho sự tiến bộ trong việc cải thiện sức khỏe của cá nhân và của toàn nhân loại nói chung, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh rằng các nghiên cứu và ứng dụng phải tôn trọng đầy đủ nhân phẩm, tự do và quyền con người, cũng như nghiêm cấm mọi hình thức phân biệt đối xử dựa trên các đặc điểm di truyền.
Bộ gen người là tập hợp đầy đủ các vật chất di truyền của con người. Nó làm nền tảng cho sự thống nhất cơ bản của tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại. Theo bản chất của nó, bộ gen của con người tiến hóa và có thể bị đột biến. Nó chứa đựng những tiềm năng được thể hiện khác nhau tùy theo môi trường tự nhiên và xã hội của mỗi cá nhân, bao gồm tình trạng sức khỏe, điều kiện sống, dinh dưỡng và giáo dục của cá nhân. Tuyên bố đã khẳng định, mọi người có quyền được tôn trọng nhân phẩm và các quyền con người bất kể đặc điểm di truyền của họ, không ai bị phân biệt đối xử dựa trên các đặc điểm di truyền nhằm xâm phạm hoặc có tác động xâm phạm quyền con người, các quyền tự do cơ bản và phẩm giá của con người. Cần phải tôn trọng tính độc đáo và đa dạng. Bên cạnh đó cũng khẳng định, bộ gen người ở trạng thái tự nhiên sẽ không làm phát sinh lợi nhuận tài chính. Theo nghĩa biểu tượng, UNESCO coi bộ gen người là “di sản của nhân loại”, đồng thời tin rằng nó cần được bảo vệ và truyền lại cho các thế hệ tương lai.
Tuyên bố đã đưa ra các điều kiện khi thực hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học. Bên cạnh việc khẳng định về việc tự do nghiên cứu, cần thiết cho sự tiến bộ của tri thức, là một phần của tự do tư tưởng, các ứng dụng nghiên cứu, bao gồm các ứng dụng trong sinh học, di truyền học và y học, liên quan đến bộ gen của con người, sẽ giúp giảm bớt đau khổ và cải thiện sức khỏe của cá nhân và nhân loại nói chung. Tuyên bố cũng nhấn mạnh không có nghiên cứu hoặc ứng dụng nghiên cứu nào liên quan đến bộ gen người, đặc biệt trong các lĩnh vực sinh học, di truyền học và y học, cần được ưu tiên hơn là tôn trọng các quyền con người, các quyền tự do cơ bản và phẩm giá con người. Không được phép thực hiện các hành vi trái với phẩm giá con người, chẳng hạn như nhân bản sinh sản của con người. Từ đó đưa ra các yêu cầu về trách nhiệm trong hoạt động của các nhà nghiên cứu, bao gồm: tính tỉ mỉ, cẩn trọng, trung thực và liêm chính trong việc thực hiện nghiên cứu của họ cũng như trong việc trình bày và sử dụng.
Để đảm bảo rằng các nguyên tắc nêu trong Tuyên bố này được tôn trọng, Tuyên bố yêu cầu các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền được mời hợp tác để xác định các thông lệ đó và thực hiện, ở cấp quốc gia hoặc quốc tế. Quốc gia cần thực hiện các biện pháp thích hợp để thúc đẩy các điều kiện vật chất và trí tuệ thuận lợi để tự do tiến hành nghiên cứu bộ gen người và xem xét tác động về đạo đức, luật pháp, xã hội và kinh tế của nghiên cứu đó. Bên cạnh đó, các quốc gia cần công nhận giá trị của việc thúc đẩy, ở các cấp độ khác nhau, khi thích hợp, việc thành lập các ủy ban đạo đức độc lập, đa ngành và đa nguyên để đánh giá các vấn đề đạo đức, luật pháp và xã hội do nghiên cứu về bộ gen người và các ứng dụng của nó đưa ra.
Đây là những yêu cầu đạo đức nhằm tôn trọng một cách triệt để quyền cơ bản về sức khỏe của mỗi con người. Các biện pháp can thiệp vào bộ gen người chỉ nên được chấp nhận vì lý do phòng ngừa, chuẩn đoán hoặc điều trị và không áp dụng các sửa đổi cho thế hệ tương lai.
2. Tuyên bố quốc tế về dữ liệu di truyền người (2003):
Nghiên cứu di truyền, đặc biệt là giải trình tự bộ gen người, đã mở ra con đường cho các nghiên cứu y học và ứng dụng y sinh sâu rộng. Dữ liệu di truyền có thể được sử dụng để chẩn đoán y tế, phòng chống bệnh tật và nghiên cứu di truyền quần thể. Trong lĩnh vực đang phát triển nhanh chóng này, nhiều người lo sợ rằng dữ liệu di truyền của con người sẽ được sử dụng cho những mục đích trái với quyền và tự do của con người. Các chính phủ, tổ chức phi chính phủ, cộng đồng trí thức và xã hội nói chung đã kêu gọi các hướng dẫn ở cấp độ quốc tế. Nhận thức được sự phức tạp và quy mô của nghiên cứu về di truyền học và nhu cầu cấp thiết về các hướng dẫn quốc tế, Tổng Giám đốc UNESCO đã đề nghị IBC xem xét khả năng soạn thảo một công cụ quốc tế về dữ liệu di truyền của con người. Sau một loạt các nghiên cứ, báo cáo, các cuộc điều trần công khai, Tuyên bố quốc tế về dữ liệu di truyền người đã được nhất trí thông qua và được hoan nghênh tại hội nghị trung lần thứ 32 của UNESCO vào ngày 16 tháng 10 năm 2003.
Nhận thấy rằng dữ liệu di truyền của con người có một trạng thái đặc biệt do tính chất nhạy cảm của chúng có thể dự đoán các khuynh hướng di truyền liên quan đến các cá nhân và sức mạnh của khả năng dự đoán có thể mạnh hơn so với đánh giá tại thời điểm thu thập dữ liệu. Chúng có thể tác động đáng kể đến gia đình, bao gồm cả thế hệ con cháu, kéo dài qua nhiều thế hệ và trong một số trường hợp đối với cả nhóm người. Tất cả dữ liệu y tế, bao gồm dữ liệu di truyền và dữ liệu protein, bất kể nội dung thông tin rõ ràng của chúng cần được xử lý với cùng tiêu chuẩn bảo mật cao, có xét đến nhu cầu đặc biệt và tinh dễ bị tổn thương của các nước đang phát triển và nhu cầu tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực di truyền người.
Bên cạnh đó cũng phải xem xét việc thu thập, xử lý, sử dụng và lưu trữ dữ liệu di truyền có tầm quan trọng hàng đầu đối với sự tiến bộ của khoa học đời sống và y học, cho các ứng dụng và các mục đích ngày càng tăng cho kinh tế và thương mại.
Đặc biệt việc thu thập, xử lý, sử dụng và lưu trữ dữ liệu di truyền của con người tiềm ẩn những rủi ro đối với việc thực hiện và tuân thủ các quyền con người và các quyền tự do cơ bản cũng như tôn trọng nhân phẩm. Khẳng định lại các nguyên tắc được thiết lập trong Tuyên ngôn chung về bộ gen người và quyền con người, các nguyên tắc bình đẳng, công bằng, đoàn kết và trách nhiệm cũng như tôn trọng nhân phẩm, quyền con người và các quyền tự do cơ bản, đặc biệt là tự do tư tưởng và thể hiện, bao gồm quyền tự do nghiên cứu, quyền riêng tư và bảo mật, phải làm nền tảng cho việc thu thập, xử lý, sử dụng và lưu trữ dữ liệu di truyền của con người.
Từ đó, Tuyên bố đã ra đời với mục đích: đảm bảo tôn trọng nhân phẩm và bảo vệ các quyền con người và các quyền tự do cơ bản trong việc thu thập, xử lý, sử dụng và lưu trữ dữ liệu di truyền của con người, dữ liệu protein và các mẫu sinh học mà chúng được lấy ra, phù hợp với các yêu cầu bình đẳng, công bằng và đoàn kết, đồng thời xem xét thích đáng của quyền tự do tư tưởng và biểu đạt, bao gồm cả quyền tự do nghiên cứu; đưa ra các nguyên tắc hướng dẫn các quốc gia trong việc xây dựng luật pháp và chính sách của họ về những vấn đề này; và để tạo cơ sở cho các hướng dẫn thực hành tốt tới các tổ chức và cá nhân có liên quan trong lĩnh vực này.
3. Tuyên ngôn chung về Đạo đức Sinh học và Nhân quyền (2005):
Ý thức được khả năng duy nhất của con người trong việc phản ánh sự tồn tại và môi trường sống của mình, nhận thức sự bất công, tránh nguy hiểm, đảm nhận trách nhiệm tìm kiếm sự hợp tác và thể hiện ý thức đạo đức. Đồng thời, phản ánh sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, ảnh hưởng không nhỏ đến sự hiểu biết của chúng ta về cuộc sống, dẫn đến một nhu cầu mạnh mẽ cho phản ứng toàn cầu đối với tác động đạo đức của những phát triển đó. Bên cạnh đó, thừa nhận rằng các vấn đề đạo đức đặt ra bởi những tiến bộ nhanh chóng trong khoa học và các ứng dụng công nghệ của chúng cần được xem xét một cách thích đáng với phẩm giá của con người, sự tôn trọng và tuân thủ các quyền con người, cũng như các quyền tự do cơ bản. Từ đó, yêu cầu cộng đồng quốc tế cần thiết và kịp thời đưa ra các nguyên tắc tạo nền tảng cho phản ứng của nhân loại trước những tình huống khó xử và tranh cãi ngày càng gia tăng mà khoa học và công nghệ gây ra đối với nhân loại và môi trường.
Bên cạnh đó, nhắc lại Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, Tuyên bố chung về bộ gen người và quyền con người năm 1997 và Tuyên bố quốc tế về dữ liệu di truyền con người năm 2003. Đồng thời, ghi nhận Công ước quốc tế của Liên Hợp quốc về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và một loạt các công ước, các văn kiện quốc tế có liên quan khác được Liên Hợp quốc và các cơ quan chuyên môn của Liên Hợp quốc thông qua. Ngoài ra, cũng cần phải lưu ý các công cụ quốc gia và khu vực trong lĩnh vực đạo đức sinh học, bao gồm Công ước bảo vệ Nhân quyền và Phẩm giá con người về Ứng dụng Sinh học và Y học, điển hình như: Công ước về Nhân quyền và Y sinh của Hội đồng Châu Âu (1997), cùng với các Nghị định thư bổ sung, cũng như luật pháp quốc gia, các quy tắc ứng xử, hướng dẫn và các văn bản khác trong lĩnh vực đạo đức sinh học, chẳng hạn như Tuyên bố Helsinki của WTO về các nguyên tắc đạo đức cho nghiên cứu y khoa có đối tượng con người (1964) và Hướng dẫn Đạo đức Quốc tế về nghiên cứu y đến con sinh liên quan người của Hội đồng Các tổ chức Quốc tế về Khoa học tự nhiên (1982). Từ đó, Tuyên ngôn chung về Đạo đức Sinh học và quyền con người của UNESCO đã ra đời và được cộng đồng thế giới, bao gồm 191 quốc gia thành viên nhất trí chấp thuận vào năm 2005
Về phạm vi, Điều 1 của Tuyên ngôn đề cập đến các vấn đề đạo đức liên quan đến y học, khoa học đời sống và các công nghệ liên kết được ứng dụng cho con người, có tính đến các khía cạnh xã hội, pháp lý và môi trường. Nó cung cấp hướng dẫn cho các quyết định hoặc thực hành của các cá nhân, nhóm, cộng đồng, tổ chức, trong cả lĩnh vực công và tư.
Vè mục tiêu, tại Điều 2 của Tuyên ngôn đã đề ra 8 mục tiêu chính, cụ thể: (i) cung cấp một khuôn khổ chung về các nguyên tắc và thủ tục để hướng dẫn các quốc gia xây dựng luật pháp, chính sách hoặc các công cụ khác trong lĩnh vực đạo đức sinh học; (ii) hướng dẫn hành động cho các cá nhân, nhóm, cộng đồng, thể chế và công ty, chính sách công và tư nhân; (ii) thúc đẩy sự tôn trọng nhân phẩm và bảo vệ quyền con người, bằng cách đảm bảo sự tôn trọng đối với sự sống của con người và các quyền tự do cơ bản, phù hợp với luật nhân quyền quốc tế; (iv) thừa nhận tầm quan trọng của quyền tự do nghiên cứu khoa học và các lợi ích thu được từ các phát triển khoa học và công nghệ, giảm thiểu nhu cầu về các nghiên cứu và phát triển đó phải thực hiện trong khuôn khổ các nguyên tắc đạo đức được nêu trong Tuyên ngôn này và để tôn trọng phẩm giá, quyền con người và nền tảng của quyền tự do; (v) thúc đẩy đối thoại đa ngành và đa nguyên về các vấn đề đạo đức sinh học giữa tất cả các bên liên quan và trong toàn xã hội; (vi) thúc đẩy quyền tiếp cận công bằng đối với sự phát triển y tế, khoa học và công nghệ cũng như có thể chia sẻ nhanh chóng kiến thức, lợi ích liên quan đến những phát triển đó, đặc biệt chú ý đến nhu cầu của các nước đang phát triển; (vii) bảo vệ và thúc đẩy lợi ích của thế hệ hiện tại và tương lai; (viii) nhấn mạnh tầm quan trọng của đa dạng sinh học và bảo tồn nó như một mối quan tâm chung của loài người.
Về nguyên tắc, Tuyên ngôn cũng đã đề ra một loạt các nguyên tắc được quy định trải dài từ Điều 3 đến Điều 17 của mình nhằm thiết lập các tiêu chuẩn phổ quát trong các quyết định, các thông lệ được thực hiện hoặc thực hiện bởi những nhóm đối tượng mà phạm vi Tuyên ngôn đề cập đến. Các nguyên tắc đều hướng tới yêu cầu phải tôn trọng Nhân phẩm và quyền con người. Cụ thể, Tuyên ngôn khẳng định: “Nhân phẩm, quyền con người và các quyền tự do cơ bản phải được tôn trọng đầy đủ. Lợi ích và phúc lợi của cá nhân cần được ưu tiên hơn lợi ích chỉ của khoa học hoặc xã hội” (Điều 3). Bên cạnh đó, Tuyên ngôn cũng đưa ra yêu cầu trong việc áp dụng và nâng cao kiến thức khoa học, thực hành y tế và các công nghệ liên quan, cần tối đa hóa lợi ích trực tiếp và gián tiếp cho bệnh nhân, người tham gia nghiên cứu và các cá nhân bị ảnh hưởng khác, giảm thiểu bất kỳ tác hại nào có thể xảy ra đối với những cá nhân đó. Quyền tự chủ của con người trong việc đưa ra quyết định, đồng thời chịu trách nhiệm về các quyết định của mình phải được tôn trọng, mặt khác phải tôn trọng quyền tự chủ của người khác. Đối với những người không có khả năng thực hiện quyền tự chủ, cần phải thực hiện các biện pháp đặc biệt để bảo vệ quyền và lợi ích của họ. Mọi can thiệp y tế phòng ngừa, chẩn đoán và điều trị chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý trước, miễn phí và được
Về việc áp dụng nguyên tắc, Tuyên ngôn đã yêu cầu các bên có liên quan khi đưa ra quyết định và giải quyết các vấn đề đạo đức sinh học của mình cần phải chuyên nghiệp, trung thực, liêm chính và minh bạch, đặc biệt là tuyên bố về mọi xung đột lợi ích và chia sẻ kiến thức. Cần cố gắng hết sức để sử dụng kiến thức và phương pháp luận khoa học có sẵn tốt nhất trong việc giải quyết và xem xét định kỳ các vấn đề đạo đức. Bên cạnh đó, các cá nhân và chuyên gia liên quan và toàn xã hội cần được tham gia đối thoại một cách thường xuyên, cũng như khuyến khích cơ hội cho các cuộc tranh luận công khai đa nguyên nhằm tìm kiếm sự thể hiện đa chiều của tất cả các ý kiến có liên quan đến vấn đề cần tranh luận. Ngoài ra, cân thúc đẩy đánh giá thích hợp và quản lý đầy đủ các rủi ro liên quan đến y học, khoa học đời sống và các công nghệ liên quan, đặc biệt liên quan đến các vấn đề xuyên quốc gia như: tài trợ nghiên cứu, thoả thuận nghiên cứu, khủng bố sinh học và vận chuyển bất hợp pháp trong các cơ quan, mô, mẫu, nguồn gen và các vật liệu liên đến di truyền.
Không chỉ vậy, Tuyên ngôn đã đề cập đến việc các quốc gia thành viên cần lập các ủy ban đạo đức và coi như là một cơ chế thực thi của Tuyên ngôn. Các Uỷ ban đạo đức cần phải độc lập, đa nguyên, đa ngành, thúc đẩy và hỗ trợ ở mức độ thích hợp, với các chức năng chính như: đánh giá các vấn đề đạo đức, luật pháp, khoa học và xã hội liên quan đến các dự án nghiên cứu liên quan đến con người; đưa ra lời khuyên về các vấn đề đạo đức trong các cơ sở y tế; đánh giá sự phát triển khoa học và công nghệ, đưa ra các tuyên bố và đóng góp vào việc chuẩn bị các hướng dẫn về các vấn đề thuộc phạm vi của Tuyên ngôn này và cuối cùng là thúc đẩy tranh luận, giáo dục và nâng cao nhận thức của cộng đồng đối với vấn đề đạo đức sinh học.
Ví dụ điển hình cho việc áp dụng thực hiện Tuyên ngôn trong thời gian mới đây, đó là việc IBC và COMEST đã kêu gọi thay đổi hướng đi trong các chiến lược tiêm chủng COVID-19 hiện tại, thúc giục rằng vắc xin được coi là hàng hóa công cộng toàn cầu để đảm bảo chúng được cung cấp công bằng ở tất cả các quốc gia. Và kết quả là “Tuyên bố IBC-COMEST” đã được đưa ra trong một sự kiện trực tuyến vào ngày 24 tháng 2 năm 2021. Những thay đổi nhanh chóng liên tục của vi rút và những nỗ lực hướng tới việc giảm thiểu vi rút chứng minh sự cần thiết của các cơ quan đạo đức của UNESCO, IBC và COMEST nhằm cung cấp thông tin, giám sát, áp dụng về Tuyên bố trước đó của họ. Cần phải thu hút một lần nữa, chú ý đến các khía cạnh đạo đức liên quan đến giáo dục và khoa học; nghiên cứu và tài trợ, sản xuất, chất lượng và triển khai vắc xin; bên cạnh đó cần lưu tâm đến các nhóm dân cư và quốc gia dễ bị tổn thương, có tính đến sự gia tăng bất bình đẳng về thu nhập cũng như cơ hội, sự do dự trong sử dụng vắc xin; chia sẻ dữ liệu và quyền riêng tư; tính sẵn có cho tất cả và bền vững. Tuyên bố đã khẳng định, vắc xin là “lợi ích chung toàn cầu”, tính sẵn có của vắc xin cho tất cả, ở tất cả các quốc gia, là một vấn đề đạo đức thiết yếu. Sự cần thiết phải đảm bảo rằng tất cả các cá nhân đều được tiếp cận với vắc xin giá cả phải chăng là điều tối quan trọng về mặt đạo đức. IBC và COMEST đã xây dựng lên sáng kiến Covax – một sáng kiến toàn cầu nhằm đảm bảo quyền tiếp cận công bằng với vắc xin COVID-19 và coi như là cơ chế để khắc phục rủi ro này.
Ngoài các công cụ pháp lý chính nêu trên, trong 10 năm đầu tiên ra đời, nội dung của Chương trình Đạo đức Sinh học của UNESCO chủ yếu tập trung vào các định hướng do IBC đưa ra, chương trình này đã phân tích và soạn thảo các báo cáo về một số chủ đề cơ bản quan trọng nhất của ngành và cả về các công cụ pháp lý. Trong những năm qua, Ủy ban đã tiếp tục chuẩn bị và trình bày nội dung tài liệu tham khảo về các nguyên tắc chính của UDBHR, và đã hỗ trợ Ban thư ký hướng dẫn Chương trình. Sau đây là danh sách các báo cáo quan trọng nhất theo thứ tự thời gian xuất bản của Uỷ ban: Sàng lọc và Kiểm tra Di truyền (1994); Liệu pháp gen người (1994); Đạo đức và Khoa học Thần kinh (1995); Giáo dục và Giảng dạy Đạo đức Sinh học ở Châu Mỹ (1995); Tư vấn di truyền (1995); Những Cân nhắc về Đạo đức về Tiếp cận Điều trị Thử nghiệm và Thử nghiệm Trên Đối tượng Con người (1996); Dữ liệu di truyền và bí mật (2000); Sử dụng tế bào gốc phôi trong nghiên cứu trị liệu (2001); Đoàn kết và hợp tác quốc tế giữa các nước phát triển và đang phát triển (liên quan đến hệ gen người) (2001); Quyền của Phụ nữ và Đạo đức Sinh học (2001); Đạo đức, Sở hữu trí tuệ và gen (2002); Khả năng xây dựng một công cụ phổ quát về đạo đức sinh học (2003); Sự đồng ý (2008); Nhân bản con người và quản trị quốc tế (2009); Trách nhiệm xã hội và sức khỏe (2010); Báo cáo của IBC về Hệ thống Y học Cổ truyền và Ý nghĩa Đạo đức của chúng (2012); Tính dễ bị tổn thương của con người và tính liêm chính của cá nhân (2013); và Không phân biệt đối xử và không kỳ thị (2014).
4. Công ước về vũ khí sinh học năm 1972:
Bên cạnh các Tuyên bố, nói đến pháp luật quốc tế quy định về Đạo đức sinh học ta cũng không thể không nói đến Công ước về vũ khí sinh học, đây là văn kiện vô cùng quan trọng trong việc ngăn chặn vũ khí sinh học.
Nghị định thư Geneva đã được ký kết tại Geneva vào tháng 6 năm 1925 và có hiệu lực vào tháng 1928, nó thể hiện cột mốc quan trọng đầu tiên hướng tới một lệnh cấm toàn diện đối với vũ khí sinh học bằng cách cấm sử dụng chúng. Tuy nhiên, một số quốc gia đã phê chuẩn Nghị định thư với sự bảo lưu, cả về khả năng áp dụng của Nghị định thư và liên quan đến việc sử dụng vũ khí hóa học hoặc sinh học để trả đũa. Những bảo lưu này đã khiến Nghị định thư Geneva trở thành một thỏa thuận không được sử dụng một cách hiệu quả. Đây chính là động lực cho việc ra đời Công ước Vũ khí sinh học (BWC) được mở ký kết vào ngày 10 tháng 04 năm 1972 và có hiệu lực vào ngày 26 tháng 3 năm 1975. Công ước đã được đảm phán bởi Hội nghị của Ủy ban giải trừ quân bị tại Geneva, Thụy Sĩ, hiện có 183 quốc gia thành viên.
BWC nghiêm cấm việc phát triển, sản xuất, thu mua, chuyển giao, tàng trữ và sử dụng vũ khí sinh học và độc tố một cách hiệu quả. Đây là hiệp ước giải trừ quân bị đa phương đầu tiên cấm toàn bộ danh mục vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMD). BWC là một thành tố chính trong nỗ lực của cộng đồng quốc tế nhằm giải quyết tình trạng phổ biến WMD và nó đã thiết lập một quy chuẩn mạnh mẽ chống lại vũ khí sinh học.
Các quốc gia thành viên của Công ước về vũ khí sinh học đã cam kết “không được phát triển, sản xuất, dự trữ hoặc mua lại hoặc giữ lại trong bất kỳ trường hợp nào: thứ nhất là vi sinh vật hoặc các tác nhân sinh học khác, hoặc các chất độc bất kể nguồn gốc hoặc phương pháp sản xuất của chúng, về chủng loại và số lượng không được biện minh cho các mục đích phòng bệnh, bảo vệ hoặc các mục đích hòa bình khác; thứ hai là vũ khí, thiết bị hoặc phương tiện giao hàng được thiết kế để sử dụng các tác nhân hoặc chất độc đó cho các mục đích thù địch hoặc trong xung đột vũ trang (quy định tại Điều 1)”. Ngoài ra, tại Điều 3 của Công ước đã quy định việc cấm chuyển giao, khuyến khích, hỗ trợ hoặc xúi giục bất kỳ ai, dù là chính phủ hay các tổ chức phi nhà nước, phát triển hoặc có được bất kỳ tác nhân, chất độc, vũ khí, thiết bị hoặc phương tiện nào.
Công ước cũng đã quy định về việc thực hiện của các quốc gia thành viên khi ghi nhận việc bắt buộc các quốc gia thành viên của BWC thực hiện các quy định của Công ước trong nước. Điều này là cần thiết để cho phép các cơ quan chức năng quốc gia điều tra, truy tố và trừng phạt bất kỳ hoạt động nào bị BWC cấm, ngăn chặn việc tiếp cận các tác nhân sinh học cho các mục đích có hại và để phát hiện và ứng phó với khả năng sử dụng vũ khí sinh học. Bên cạnh đó, BWC cũng đưa ra cơ chế khiếu nại về vi phạm BWC, cụ thể tại Điều 6 quy định: “cho phép các quốc gia thành viên khiếu nại lên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nếu họ nghi ngờ quốc gia khác vi phạm nghĩa vụ hiệp ước”. Hơn nữa, điều khoản cũng yêu cầu các quốc gia hợp tác với bất kỳ cuộc điều tra nào mà Hội đồng Bảo an có thể tiến hành. Bên cạnh đó, tại Hội nghị rà soát lần thứ hai vào năm 1986, các quốc gia thành viên BWC đã đồng ý tăng cường Công ước bằng cách trao đổi các “Biện pháp xây dựng lòng tin hàng năm” (CBM) [30]. Các báo cáo mang tính ràng buộc chính trị này nhằm mục đích ngăn chặn hoặc giảm thiểu sự xuất hiện của những nguy cơ, nghi ngại, đồng thời cải thiện hợp tác quốc tế về các hoạt động sinh học hòa bình. CBM là cơ chế chính thức chính mà qua đó các quốc gia thành viên thường xuyên trao đổi thông tin liên quan đến tuân thủ.
Trong suốt những năm qua, các quốc gia thành viên đã họp khoảng 5 năm một lần để xem xét hoạt động của BWC. Giữa các Hội nghị rà soát này, các quốc gia thành viên đã theo đuổi nhiều hoạt động và sáng kiến khác nhau nhằm tăng cường hiệu quả và cải thiện việc thực hiện Công ước. Tổng cộng có tám Hội nghị đánh giá đã diễn ra kể từ Hội nghị đầu tiên vào năm 1980 (Hội nghị tổng kết lần thứ 9 dự kiến diễn ra tại Geneva, Thụy Sĩ vào cuối năm 2021). Công ước về vũ khí sinh học có ý nghĩa như là biện pháp đầu tiên, đạt được kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, liên quan đến việc giải trừ các loại vũ khí, là ví dụ tiêu biểu về sự đồng lòng trong giải giáp vũ trang. Nếu công ước này được thực thi mạnh mẽ hơn nữa, thế giới sẽ không chỉ được bảo vệ tốt hơn khỏi hiểm họa vũ khí sinh học, mà còn hưởng dụng tốt hơn nhờ những tiến bộ về y học.