Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên mà trong đó cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào những quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành việc xác định có hay là không những dấu hiệu của tội phạm. Vậy chưa khởi tố vụ án có được khám xét nhà, người không?
Mục lục bài viết
1. Chưa khởi tố vụ án có được khám xét nhà, người không?
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên mà trong đó cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào những quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành việc xác định có (hay không) những dấu hiệu của tội phạm trong hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện, đồng thời ban hành về quyết định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự liên quan đến chính hành vi đó. Quyết định khởi tố vụ án là cơ sở pháp lí để thực hiện việc điều tra. Những hoạt động điều tra và việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế sẽ chỉ được tiến hành sau khi có quyết định khởi tố vụ án. Tuy nhiên, ở trong trường hợp cần thiết phải làm sáng tỏ các tài liệu đầu tiên, xác định hoàn cảnh, địa điểm xảy ra tội phạm, thu thập các vật chứng và những tình tiết có giá trị cho việc phát hiện tội phạm thì sẽ tiến hành khám nghiệm hiện trường; khám nghiệm tử thi; trưng cầu giám định; yêu cầu về việc định giá tài sản; trường hợp khẩn cấp hoặc là phạm tội quả tang thì giữ người hoặc bắt người trước khi khởi tố vụ án.
Điều 192 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 quy định về căn cứ khám xét người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện, những tài liệu, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử, Điều này quy định về căn cứ khám xét người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện, những tài liệu, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử như sau:
– Việc khám xét người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện chỉ được tiến hành khi mà có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện có công cụ, các phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc là đồ vật, dữ liệu điện tử, tài liệu khác có liên quan đến vụ án. Việc khám xét chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, các phương tiện cũng được tiến hành khi cần phát hiện người đang bị truy nã, truy tìm và giải cứu nạn nhân.
– Khi có căn cứ để nhận định trong thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử có công cụ, các phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản liên quan đến vụ án thì sẽ có thể khám xét thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử.
Theo quy định trên, việc khám xét người, chỗ ở chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận định trong người, trong chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện có công cụ, các phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc là đồ vật, dữ liệu điện tử, tài liệu khác có liên quan đến vụ án. Ngoài ra, việc khám xét chỗ ở cũng sẽ được tiến hành khi cần phát hiện người đang bị truy nã, truy tìm và giải cứu nạn nhân.
Như vậy, có thể khẳng định được rằng chưa khởi tố vụ án thì người có thẩm quyền vẫn được khám xét nhà, người, chỉ cần việc khám xét nhà, người khi đã có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở có các công cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc là đồ vật, dữ liệu điện tử, tài liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc là được tiến hành khi mà cần phát hiện người đang bị truy nã, truy tìm và giải cứu nạn nhân.
2. Quy định về khám xét nhà, người:
Như đã phân tích ở mục trên, chưa khởi tố vụ án thì người có thẩm quyền vẫn được khám xét nhà, người. Việc khám xét nhà, người phải tuân thủ các quy định sau:
– Quy định về khám xét nhà:
+ Khi khám xét chỗ ở thì phải có mặt người đó hoặc là người từ đủ 18 tuổi trở lên cùng chỗ ở, có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người chứng kiến; trong trường hợp người đó, người từ đủ 18 tuổi trở lên cùng chỗ ở cố tình vắng mặt, bỏ trốn hoặc là vì lý do khác họ không có mặt mà việc khám xét không thể trì hoãn thì việc khám xét vẫn sẽ được tiến hành nhưng phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi khám xét và hai người chứng kiến.
+ Không được bắt đầu việc khám xét chỗ ở vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp nhưng phải được ghi rõ lý do vào biên bản.
+ Khi tiến hành khám xét chỗ ở, những người có mặt không được tự ý rời khỏi nơi đang bị khám, không được liên hệ, hay trao đổi với nhau hoặc với những người khác cho đến khi khám xét xong.
– Quy định về khám xét người:
+ Khi bắt đầu khám xét người, người thi hành lệnh khám xét phải đọc lệnh và đưa cho chính người bị khám xét đọc lệnh đó; giải thích cho người bị khám xét và những người mà có mặt biết quyền và nghĩa vụ của họ.
+ Người tiến hành khám xét phải yêu cầu người bị khám xét đưa ra những tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án, nếu như họ từ chối hoặc đưa ra không đầy đủ các tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì tiến hành khám xét.
+ Việc khám xét người phải do người cùng giới thực hiện và có những người khác cùng giới chứng kiến. Việc khám xét không được xâm phạm đến tính mạng, đến sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị khám xét.
+ Có thể tiến hành khám xét người mà không cần có lệnh trong trường hợp bắt người hoặc là khi có căn cứ để khẳng định người có mặt ở tại nơi khám xét giấu trong người vũ khí, hung khí, chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án.
3. Người ra lệnh khám xét nhà, người:
Điều 193 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2021 quy định về thẩm quyền ra lệnh khám xét, Điều này quy định thẩm quyền ra lệnh khám xét như sau:
– Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật tố tụng hình sự có quyền ra lệnh khám xét. Lệnh khám xét của những người được quy định ở tại khoản 2 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật tố tụng hình sự phải được Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn trước khi thi hành.
– Trong trường hợp khẩn cấp, những người có thẩm quyền được quy định tại khoản 2 Điều 110 của Bộ luật tố tụng có quyền ra lệnh khám xét. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi mà khám xét xong, người ra lệnh khám xét phải thông báo bằng văn bản đến cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc là Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ việc, vụ án.
– Trước khi tiến hành khám xét, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian và về địa điểm tiến hành khám xét để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc khám xét, trừ trường hợp là khám xét khẩn cấp. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc khám xét. Nếu như Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản khám xét.
– Mọi trường hợp khám xét đều được lập biên bản theo quy định ở tại Điều 178 của Bộ luật tố tụng hình sự và đưa vào hồ sơ vụ án.
Theo quy định này thì những người sau có quyền ra lệnh khám xét nhà, người:
– Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng của Cơ quan điều tra các cấp.
– Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng của Viện kiểm sát quân sự các cấp;
– Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án của Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.
Lưu ý rằng, lệnh khám xét nhà, người của những người được giao nhiệm vụ tiến hành một số các hoạt động điều tra mà pháp luật quy định và của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng của Cơ quan điều tra các cấp sẽ phải được Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn trước khi thi hành.
Những văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017.
THAM KHẢO THÊM: