Chủ thể có quyền kháng cáo? Những người nào có quyền kháng cáo? Thời hạn giải quyết kháng cáo theo Bộ luật tố tụng hình sự?
Kháng cáo là việc mà thủ tục tố tụng được tiến hành sau khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong trường hợp không đồng ý với phán quyết của
Cơ sở pháp lý:
Mục lục bài viết
- 1 1. Những người nào có quyền kháng cáo?
- 1.1 1.1. Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm:
- 1.2 1.2. Người bào chữa:
- 1.3 1.3. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự:
- 1.4 1.4. Người bị hại và đại diện hợp pháp của họ:
- 1.5 1.5. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ:
- 1.6 1.6. Người được Tòa án tuyên không có tội:
- 2 2. Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm trong tố tụng hình sự:
1. Những người nào có quyền kháng cáo?
Tại Điều 331. Người có quyền kháng cáo bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định:
1. Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
2. Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa.
3. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.
5. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.
6. Người được
1.1. Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm:
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 như trên quy định về ” Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm.” Bị cáo là đối tượng của việc buộc tội trong hình sự, họ có thể phải chịu hình phạt và bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội của mình gây ra bằng một bản án, quyết định của Tòa án hoặc có thể được tuyên vô tội và được trả tự do ngay. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, họ có quyền kháng cáo. Quyền kháng cáo được pháp luật tố tụng quy định cho chính bản thân bị cáo. Người đại diện hợp pháp của bị cáo trong trường hợp bị cáo là người chưa thành niên hoặc là người có nhược điểm về thể chất, tâm thần có thể là cha, mẹ, anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha.
Như vậy, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo đối với mọi bản án, quyết định sơ thẩm. Nếu bị cáo là người chưa thành niên, có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì họ còn có quyền tự mình kháng cáo, đồng thời, người đại diện hợp pháp và người bào chữa của họ có quyền kháng cáo trong các trường hợp này để bảo vệ quyền lợi cho bị cáo mà không cần có sự đồng ý hay yêu cầu của bị cáo, đây là quyền kháng cáo độc lập, không phụ thuộc vào yêu cầu của bị cáo. Bị cáo và người đại điện hợp pháp có quyền kháng cáo đối với toàn bộ bản án: về tội danh, điều khoản Bộ luật hình sự, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt chính và hình phạt bổ sung, về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, án phí, bồi thường thiệt hại… và các quyết định sơ thẩm: quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án và quyết định áp dụng biện pháp chữa bệnh.
Để khôi phục hoàn toàn danh dù cho mình, người được Tòa án tuyên là không có tội có quyền kháng cáo phần lý do của bản án sơ thẩm tuyên bị họ không có tội.
1.2. Người bào chữa:
Để đảm bảo việc bảo vệ quyền lợi cho bị cáo là người bị hạn chế về năng lực hành vi tố tụng, Luật TTHS Việt Nam quy định người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của bị cáo là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất, tâm thần. Đây là quyền kháng cáo độc lập của người bào chữa, không phụ thuộc bị cáo có đồng ý hay không. Việc người bào chữa kháng cáo không loại trừ quyền tự bào chữa của bị cáo.
1.3. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự:
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự chưa thành niên, có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định sơ thẩm liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ. Đây cũng là quyền độc lập của người bảo vệ quyền lợi của đương sự, không phụ thuộc đương sự có đồng ý hay không.
1.4. Người bị hại và đại diện hợp pháp của họ:
Người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần hình phạt cũng như bồi thường thiệt hại. Riêng về bồi thường thiệt hại,
Trong trường hợp người bị hại chết mà có từ hai người trở lên đều là người đại diện hợp pháp của người bị hại (ví dụ: cha, mẹ, vợ và con thành niên của người bị hại) thì phân biệt như sau:
Trường hợp trong quá trình điều tra, truy tố hoặc tại phiên tòa sơ thẩm những người này đã đồng ý cử một người trong số họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của người bị hại thì sau khi xét xử sơ thẩm những người này vẫn có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Việc kháng cáo có thể do từng người thực hiện hoặc có thể cử một người trong số họ thay mặt họ thực hiện.
Trường hợp trong quá trình điều tra, truy tố hoặc tại phiên tòa sơ thẩm, những người này chưa cử ai trong số họ thay mặt họ làm người đại diện hợp pháp của người bị hại, mà người đại diện hợp pháp của người bị hại chỉ do một hoặc một số người trong số họ tự nhận, nếu sau khi xét xử sơ thẩm có người trong số những người chưa cử người đại diện có đơn với nội dung khiếu nại bản án sơ thẩm hoặc yêu cầu xét xử phúc thẩm mà nội dung đơn của họ phù hợp với nội dung kháng cáo của người đại diện hợp pháp đã tham gia tố tụng thì Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận để xét xử theo thủ tục chung. Nếu nội dung đơn của họ không phù hợp với nội dung kháng cáo của người đại diện hợp pháp đã tham gia tố tụng hoặc người đại diện hợp pháp đã tham gia tố tụng không kháng cáo nhưng trong vụ án còn có những người tham gia tố tụng khác kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị thì khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án hoặc quyết định sơ thẩm về phần có liên quan mà họ có khiếu nại hoặc yêu cầu xét xử phúc thẩm vụ án, để điều tra lại hoặc xét xử sơ thẩm lại do vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng (chưa đưa họ vào tham gia tố tụng khi quyền, lợi ích của họ xung đột với quyền và lợi ích của người đại diện hợp pháp đã tham gia tố tụng).
Người bị hại có quyền kháng cáo cả theo hướng tăng nặng hoặc giảm nhẹ đối với bản án sơ thẩm: về tội danh, điều khoản của Bộ luật hình sự, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt chính và hình phạt bổ sung, về bồi thường thiệt hại, về quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án…
1.5. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ:
Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại. Do nguyên đơn, bị đơn dân sự tham gia vụ án để giải quyết vấn đề dân sự phát sinh trong vụ án hình sự, vì vậy quyền kháng cáo của họ chỉ hạn chế trong phạm vi những phần bản án, quyết định liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.
Nếu nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất, tâm thần thì người đại diện hợp pháp của họ cũng có quyền kháng cáo đối với bản án, quyết định sơ thẩm. Ngoài ra, BLTTHS năm 2003 đã có quy định mới về việc kháng cáo đối với đương sự là người chưa thành niên: đối với những người này, người bảo vệ quyền lợi cho họ có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.
1.6. Người được Tòa án tuyên không có tội:
Người được Tòa án tuyên không có tội người mà quyền lợi, nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Họ có thể là người không liên quan đến việc thực hiện tội phạm nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng phải xử lý theo pháp luật những vấn đề có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của họ. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của họ.
2. Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm trong tố tụng hình sự:
Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm trong tố tụng hình sự 2015 quy định Tại Điều 333. Thời hạn kháng cáo:
1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
2. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định sơ thẩm là 07 ngày kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định.
3. Ngày kháng cáo được xác định như sau:
a) Trường hợp đơn kháng cáo gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo là ngày theo dấu bưu chính nơi gửi;
b) Trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ thì ngày kháng cáo là ngày Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ nhận được đơn. Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ phải ghi rõ ngày nhận đơn và ký xác nhận vào đơn;
c) Trường hợp người kháng cáo nộp đơn kháng cáo tại Tòa án thì ngày kháng cáo là ngày Tòa án nhận đơn. Trường hợp người kháng cáo trình bày trực tiếp với Tòa án thì ngày kháng cáo là ngày Tòa án lập biên bản về việc kháng cáo.
Như vậy, thời hạn kháng cáo là thời hạn mà pháp luật quy định cho các chủ thể thực hiện quyền kháng cáo. Những người có quyền kháng cáo chỉ được thực hiện quyền kháng cáo trong thời hạn quy định. Thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày tuyên án trong trường hợp bị cáo, đương sự có mặt tại phiên tòa hoặc từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết trong trường hợp bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa. Ngày đầu tiên của thời hạn kháng cáo được xác định là ngày tiếp theo của ngày tuyên án hoặc ngày giao bản án hoặc ngày niêm yết. Việc quy định như vậy đã tạo điều kiện cho bị cáo cũng như chủ thể khác có quyền kháng cáo có thể thực hiện được quyền của mình một cách tốt nhất. Như vậy thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm có thể không tính kể từ ngày tuyên án.