Tòa từ chối giải quyết chia tài sản chung khi không có đăng kết hôn? Chia tài sản chung khi không có giấy đăng ký kết hôn? Không đăng ký kết hôn khi ly hôn có được chia tài sản không? Nguyên tắc chia tài sản khi sống chung như vợ chồng?
Mục lục bài viết
1. Tòa từ chối giải quyết chia tài sản chung khi không có đăng kết hôn
Tóm tắt câu hỏi:
Xin chào luật sư, con tôi hiện đang sống chung với chồng khoảng 5 năm nhưng chưa là đăng ký kết hôn nhưng đã dọn đến ở với nhau như vợ chồng bình thường. Giờ xảy ra cãi vã con tôi dọn về nhà ở với tôi, hai bên đã nhiều lần đề cập tới chuyện chia tài sản trong thời gian sống chung và đưa nhau ra tòa nhưng bị từ chối. Xin luật sư cho biết lý do mà tòa từ chối?
Luật sư tư vấn:
Theo quy định của
“Giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.
2. Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.”
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài:1900.6568
Vì vậy con gái chị và người đàn ông kia theo đúng quy định thì 2 người họ không phát sinh quan hệ vợ chồng vì không có đăng ký kết hôn, nên tòa không tiếp là đúng.
Về vấn đề tài sản hình thành trong thời kỳ sống chung như vợ chồng được xử lý theo “Điều 16. Giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn”:
1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
Tùy theo công sức đóng góp của mỗi bên để tiến hành phân chia tài sản chung sao cho phù hợp.
2. Chia tài sản khi không đăng kí kết hôn
Tóm tắt câu hỏi:
Bố tôi cưới vợ lớn và có 3 người con chung, nhưng sau đó ông bỏ và đi theo vợ bé (mẹ tôi) có 3 người con chung, đến nay đã 30 năm bố vẫn qua lại hai nhà. Nay bố và mẹ tôi cãi nhau không muốn sống chung nên bố về đòi mẹ tôi chia tài sản. Xin hỏi Luật sư tài sản được chia như thế nào? Bố và mẹ không đăng ký kết hôn, toàn bộ giấy tờ nhà cửa mẹ tôi đứng tên. Bố tôi có quyền bán một mảnh đất khi không có sự đồng ý của mẹ tôi không? Cảm ơn Luật sư.
Luật sư tư vấn:
Theo thông tin bạn cung cấp thì bố mẹ bạn đã sống chung với nhau được 30 năm, tức là khoảng từ năm 1985 đến nay.
Theo quy định tại Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (hiện nay vẫn còn hiệu lực) thì “Người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn” thì được coi là “Người đang có vợ hoặc có chồng”. Tuy nhiên trong trường hợp này, cả hai bên đều phải không có vợ hoặc có chồng, tức là hoặc chưa kết hôn, hoặc đã kết hôn nhưng đã ly hôn. Khi đó, pháp luật mặc nhiên coi trường hợp nam, nữ sống chung này là vợ chồng mà không cần đăng ký kết hôn. Đây gọi là hôn nhân thực tế. Thời kỳ hôn nhân trong trường hợp này được xác định từ thời điểm bắt đầu sống chung.
Như vậy, bạn cần xác định rõ bố bạn đã ly hôn với vợ cả tại Tòa án chưa? Nếu đã ly hôn thì ly hôn trước hay sau ngày 03/01/1987? Bố mẹ bạn sống chung trước hay sau ngày 03/01/1987?
Trường hợp 1:
Nếu bố bạn và người vợ cả ly hôn sau ngày 03/1/1987 hoặc bố mẹ bạn sống chung sau ngày 03/1/1987 mà không có đăng ký kết hôn thì không được coi là hôn nhân thực tế theo quy định trên. Khi đó, bố mẹ bạn không có quan hệ vợ chồng.
Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn như sau:
Điều 14. Giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.
2. Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.
Điều 15. Quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con.
Điều 16. Giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
Như vậy, giữa bố và mẹ bạn không có quan hệ vợ chồng, do đó không phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng. Quan hệ tài sản sẽ được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Điều này có nghĩa là, trong trường hợp bố mẹ bạn không thỏa thuận được việc chia tài sản, những tài sản đứng tên mẹ bạn thì bố bạn không có quyền nếu như không chứng minh được công sức đóng góp vào số tài sản ấy. Mặt khác, nếu bố bạn có tài sản là quyền sử dụng đất mà không đứng tên mẹ bạn thì đó là tài sản riêng của bố bạn, bố bạn có toàn quyền định đoạt mà không cần xin phép mẹ bạn.
Trường hợp 2:
Nếu bố bạn và người vợ cả ly hôn trước ngày 03/1/1987 và bố mẹ bạn sống chung từ trước ngày 03/1/1987 thì bố mẹ bạn được công nhận là vợ chồng. Toàn bộ tài sản hình thành từ khi sống chung được coi là tài sản chung của vợ chồng cho dù chỉ một bên đứng tên, trừ tài sản riêng của mỗi bên (phải chứng minh được là tài sản riêng mới được coi là tài sản riêng). Nếu bố mẹ bạn muốn chia tài sản thì phải làm thủ tục ly hôn hoặc thủ tục chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân.
Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân được quy định từ điều 38 đến điều 42 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo đó, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật này (các trường hợp chia tài sản chung bị vô hiệu); nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bố mẹ bạn muốn ly hôn mà không thỏa thuận được việc chia tài sản thì tài sản được chia theo quy định từ Điều 59 đến Điều 64 Luật HN&GĐ 2014. Tức là tài sản sẽ được chia đôi, có tính đến công sức đóng góp, tạo lập của mỗi người.
3. Chia tài sản chung khi không có giấy đăng ký kết hôn
Tóm tắt câu hỏi:
Chào Luật sư, kính mong Luật sư giải đáp giúp cháu thắc mắc này. Ba mẹ cháu sống chung như vợ chồng từ năm 1997, có tổ chức đám cưới, nhưng không đăng ký kết hôn. Trong thời gian chung sống, bà nội và bà ngoại cháu cùng góp tiền cho ba mẹ cháu mua một mảnh đất để xây nhà cấp 4 ở vùng ngoại ô. Ngôi nhà này chỉ có một giấy thoả thuận viết tay, xác nhận viết tay của cán bộ khu phố, không có con dấu gì cả, do ba cháu đứng tên (hiện nay cháu đang giữ giấy này)
Năm 2007, ba mẹ cháu thoả thuận ly hôn, nguyên nhân do ba cháu bỏ nhà đi biền biệt, bỏ bê vợ con. Hai con chung sinh năm 1998 và 2002 sống chung với mẹ, tài sản không yêu cầu toà giải quyết. Mẹ con cháu vẫn sống trong ngôi nhà đó đến nay, mẹ cháu có sửa chữa, nâng cấp nhiều lần, tiêu tốn khoảng 100 triệu. Ba cháu bỏ đi nơi khác, sống chung với người khác và đã có con.
Nay cháu đã 18 tuổi, mẹ cháu có yêu cầu ba cháu về sang tên ngôi nhà lại cho cháu, mẹ cháu sẽ đưa cho ba một số tiền tương xứng, xem như phân chia tài sản cho ba. Ba cháu không đồng ý, cho rằng ngôi nhà đó là của bà nội, và không thừa nhận cháu là con, dù cho giấy khai sinh của cháu có tên ba. Kính thưa luật sư, liệu cháu có thể yêu cầu khởi kiện lên toà án, đề nghị phân chia ngôi nhà đó cho ba, mẹ, hai cháu được không? Tỉ lệ thắng kiện có cao không? Cháu trân trọng cảm ơn và mong nhận được lời tư vấn của luật sư. ?
Luật sư tư vấn:
Theo quy định tại Khoản 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 như sau:
“a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày
b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng;
c) Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Toà án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.”
Có thể thấy, việc mẹ bạn và cha bạn sống chung như vợ chồng từ năm 1997, có tổ chức đám cưới nhưng không đăng ký kết hôn cho đến năm 2007 mới quyết định ly hôn thì theo quy định trên pháp luật sẽ không công nhận cha mẹ bạn là vợ chồng vì không tiến hành đăng ký kết hôn.
Theo quy định tại Điều 16 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn:
“1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.”
Như vậy, đối với tài sản hình thành trong thời kỳ chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn, nếu không có thỏa thuận với nhau, hoặc khi đăng ký kết hôn không nhập số tài sản đó vào tài sản chung, về nguyên tắc, tài sản riêng của ai sẽ thuộc về người đó. Do mẹ bạn vẫn để giấy xác nhận viết tay của cán bộ khu phố về việc mua ngôi nhà đứng tên bố bạn mà không tiến hành đăng ký xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở xác định căn nhà đó thuộc tài sản chung đứng tên cả 2 vợ chồng nên căn nhà đó sẽ được xác định là tài sản riêng của bố bạn. Tuy nhiên căn cứ khoản 2 Điều 16 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 nêu trên và Bộ luật dân sự 2015 quy định tại Điều 213 như sau:
“Điều 213. Sở hữu chung của vợ chồng
1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
3. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án.
5. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này.”
Mẹ bạn có quyền khởi kiện đến Tòa án yêu cầu bố bạn phải phân chia ngôi nhà với lý do không thỏa thuận được với bố bạn, việc bố bạn không chấp nhận phân chia ngôi nhà cho mẹ con bạn, đã vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của bạn và mẹ bạn.
4. Không đăng ký kết hôn khi ly hôn có được chia tài sản không?
Tóm tắt câu hỏi:
Trước kia tôi và chồng tôi không đăng kí kết hôn nhưng trong hộ khẩu có tôi, con trai tôi sinh năm 1996 và con gái tôi sinh năm 2003, khi ly hôn tài sản sẽ chia ra sao. Ba chồng tôi có làm tờ di chúc nhưng đã mất còn mẹ tôi thì còn sống vậy tôi và con tôi có được thừa hưởng không? Chồng tôi thì ăn chơi lêu lổng thỉnh thoảng lại bạo lực gia đình, pháp luật sẽ xử sao về hành vi như vậy?
Luật sư tư vấn:
Thứ nhất về vấn đề chia tài sản của vợ chồng:
Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 có quy định:
“Người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn” thì được coi là “Người đang có vợ hoặc có chồng”.
Không rõ là vợ chồng bạn sống chung từ năm bao nhiêu do vậy có hai trường hợp như sau:
Trường hợp 1: Vợ chồng bạn sông chung với nhau sau ngày 03/01/1987.
Vợ chồng bạn sống chung với nhau sau 03/01/1987 mà không đăng ký kết hôn thì sẽ không tồn tại quan hệ vợ chồng.
Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn như sau:
Điều 14. Giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.
2. Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.
Điều 16. Giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
Như vậy, việc giải quyết quan hệ tài sản sẽ được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì những tài sản mà đứng tên của bạn và chồng bạn không chứng minh được công sức đóng góp vào tài sản ấy thì sẽ thuộc quyền sở hữu của bạn và ngược lại. Việc bạn có được hưởng di sản thừa kế hay không sẽ phụ thuộc vào nội dụng của di chúc của bố chồng bạn, nếu trong di chúc bố chồng bạn thể hiện ý chí phân chia di sản cho bạn thì bạn sẽ được hưởng.
Trường hợp 2: Vợ chồng bạn sống chung với nhau trước 03/01/1987.
Vợ chồng bạn sống chung với nhau trước 03/01/1987 và không đăng ký kết hôn sẽ được coi là hôn nhân thực tế và tồn tại quan hệ vợ chồng. Vấn đề phân chia tài sản khi ly hôn được giải quyết theo quy định tại Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:
Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn
1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này.
Do đó, đầu tiên là vợ chồng bạn sẽ thỏa thuận với nhau nếu không thỏa thuận được thì tòa án sẽ giải quyết theo quy định của pháp luật căn cứ vào sức đóng góp của các bên. Việc bạn có được hưởng di sản thừa kế hay không sẽ phụ thuộc vào nội dụng của di chúc của bố chồng bạn, nếu trong di chúc bố chồng bạn thể hiện ý chí phân chia di sản cho bạn thì bạn sẽ được hưởng.
Thứ hai về vấn đề xử lý người có hành vi bạo lực gia đình:
Điều 42 Luật phòng chống bạo lực gia đình có quy quy định về xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình như sau:
Điều 42: Xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
1. Người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
2. Cán bộ, công chức, viên chức, người thuộc lực lượng vũ trang nhân dân có hành vi bạo lực gia đình nếu bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định của khoản 1 Điều này thì bị thông báo cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý người đó để giáo dục.
3. Chính phủ quy định cụ thể các hành vi vi phạm hành chính về phòng, chống bạo lực gia đình, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.
Do đó, nếu chồng của bạn mà có hành vi bạo lực gia đình thì tùy vào mức độ vi phạm có thể bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
5. Nguyên tắc chia tài sản khi sống chung như vợ chồng
Tóm tắt câu hỏi:
Ba tôi và Má tôi sống chung với nhau năm 1977. Cùng nhau làm ăn sinh sống nhưng Ba tôi thường xuyên đánh Má tôi và đuổi ra khỏi nhà cho đến hiện tại. Nay Má tôi muốn ly hôn vậy giải quyết tài sản như thế nào theo quy định pháp luật (không thể giải quyết bằng thoả thuận). Tài sản này đều do 2 bên bỏ công sức làm ra nhưng theo lệ cũ Ba tôi chủ trong nhà nên mọi giấy tờ đất đai nhà cửa đều do Ba tôi đứng tên. Vậy sau khi ly hôn Má tôi có được hưởng tài sản đó không. Mong Luật sư cho ý kiến đóng góp.
Luật sư tư vấn:
Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Giải quyết dựa trên quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014.
Theo quy định tại Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình cũ năm 2000, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình 2014, để được pháp luật công nhận là vợ chồng, nam nữ phải tiến hành đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên theo như bạn chia sẻ thì ba má bạn đã sống chung với nhau từ năm 1977 và không nói rõ ba má bạn đã đăng ký kết hôn hay chưa nên tại điểm a, khoản 3 Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội hướng dẫn về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của luật này được thực hiện như sau:
“a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;”
Vì vậy, ba má bạn sống chung với nhau trước 03/01/1987 nên pháp luật công nhận ba má bạn là vợ chồng.Toàn bộ tài sản hình thành từ khi sống chung được coi là tài sản chung của vợ chồng cho dù chỉ một mình ba bạn đứng tên, trừ tài sản riêng của mỗi người (tức là ba bạn phải chứng minh được là tài sản riêng mới được coi là tài sản riêng). Cụ thể theo quy định tại Điều 33 luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.”
Về việc mọi giấy tờ đất đai đều đứng tên của ba bạn thì căn cứ theo khoản 1 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì: “Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng”.
Tức là trong trường hợp quyền sử dụng đất được hình thành trong thời kỳ hôn nhân mà không phải giao dịch bằng tài sản riêng thì được coi là tài sản chung.
Về việc phân chia tài sản sau khi ly hôn thì phải dựa trên nguyên tắc quy định tại Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:
“1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này.”
Như vậy, tài sản vợ chồng sau khi ly hôn được chia như sau:
+Thứ nhất là dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên
+Thứ hai, nếu không thỏa thuận được thì: Đối với tài sản riêng của ai thì sẽ thuộc về người đó, đối với tài sản chung thì thông thường sẽ được chia đôi nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này.
Kết luận: Trong trường hợp của má bạn tuy bố bạn đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì vẫn xác định đây là tài sản chung của vợ chồng. Do đó, việc chia tài sản này cũng áp dụng nguyên tắc như Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình 2014 như trên.