Luật áp dụng đối với người có nhiều quốc tịch nước ngoài? Luật áp dụng đối với người không quốc tịch?
Công dân sinh ra đều sẽ được xác định quốc tịch nước mình, tuy nhiên trong mọt số trường hợp người không quốc tịch, nhiều quốc tịch thì cần phải xác định pháp luật để áp dụng đối với những người này. Vậy căn cứ xác định pháp luật áp dụng với người không quốc tịch, nhiều quốc tịch được quy định như thế nào? Bài viết dưới đây của Luật Dương Gia sẽ đi vào tìm hiểu các quy định liên quan để giúp người đọc hiểu rõ hơn về vấn đề này.
Luật sư
Cơ sở pháp lý:
1. Luật áp dụng đối với người có nhiều quốc tịch nước ngoài
Trong pháp luật quốc tế, hiện tượng một người đồng thời mang quốc tịch của hai hay nhiều quốc gia được gọi là người mang nhiều quốc tịch (Bipatride; pluripatride). Đây là hiện tượng thường gặp trong thực tiễn đời sống quốc tế và tồn tại hoàn toàn khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ nhà nước nào. Trên thế giới không ít quốc gia trong các đạo luật về quốc tịch của mình ghi nhận nguyên tắc không công nhận nhiều quốc tịch. Điều này chỉ có ý nghĩa là không công nhận hậu quả pháp lý của nhiều quốc tịch. Các quốc gia này đứng trên quan điểm cho rằng: “Hiện tượng nhiều quốc tịch là hiện tượng tiêu cực, nó tiềm ẩn cho mâu thuẫn chính trong nội dung của nó và nó cũng là nguyên nhân và nguồn gốc của các cuộc tranh chấp và xung đột quốc tế”.(1) Hiện tượng một người cùng một lúc mang nhiều quốc tịch phát sinh do các nguyên nhân sau:
– Có sự xung đột pháp luật giữa các nước về cách thức hưởng và mất quốc tịch;
– Khi một người đã có quốc tịch mới nhưng chưa từ bỏ quốc tịch cũ;
– Khi người đó được hưởng quốc tịch mới do kết hôn với người nước ngoài hoặc được làm con nuôi người nước ngoài.
Hiện nay trên thế giới, các quốc gia sử dụng một số biện pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế hoặc loại bỏ những trường hợp nhiều quốc tịch. Các biện pháp này có thể được ghi nhận trong pháp luật quốc gia.
Những biện pháp này còn được ghi nhận trong các điều ước quốc tế đa phương hoặc song phương. Theo các điều ước quốc tế, những người có hai hay nhiều quốc tịch có quyền tự do lựa chọn quốc tịch của một trong các nước tham gia điều ước quốc tế. Trong trường hợp không lựa chọn được quốc tịch thì họ được coi là công dân của nước nơi họ cư trú thường xuyên. Mặc dù có nhiều biện pháp để hạn chế tình trạng nhiều quốc tịch nhưng hiện tượng nhiều quốc tịch vẫn tồn tại trong thực tiễn quốc tế. Những người nhiều quốc tịch có lợi thế là:
– Việc sinh hoạt, đi lại tại các nước được dễ dàng hơn do người đó có khả năng xin hộ chiếu của nhiều quốc gia và được hưởng sự bảo hộ ngoại giao của các quốc gia đó;
– Tại mỗi quốc gia có liên quan, người đó đều có quy chế công dân nên được hưởng quyền ở tất cả các quốc gia có liên quan đó. Tuy nhiên, trên thực tế người có nhiều quốc tịch cũng gặp một số bất lợi: – Họ phải thực hiện nghĩa vụ đối với tất cả các quốc gia mà mình là công dân, đặc biệt là nghĩa vụ quân sự; – Quy chế pháp lí nhân thân của người nhiều quốc tịch không bảo đảm tính ổn định trong trường hợp quy phạm xung đột áp dụng hệ thuộc “luật của nước mà đương sự là công dân” để xác định quy chế pháp lí nhân thân của người đó. Để điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài mà người nhiều quốc tịch tham gia, pháp luật các nước đã có quy định xác định pháp luật áp dụng đối với họ. Nói chung, pháp luật của các nước thường áp dụng hai nguyên tắc: Thứ nhất, áp dụng pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch và thường trú; thứ hai, áp dụng pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch và có mối quan hệ gắn bó nhất (trong trường hợp người có nhiều quốc tịch không thường trú ở một trong các nước mà người đó có quốc tịch). Tức là, áp dụng nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu.
Nguyên tắc này có thể được xác định theo một số dấu hiệu:
– Nơi cư trú;
– Nơi làm việc (kể cả quân sự và dân sự);
– Nơi mà ở đó cá nhân thực tế đã sử dụng các quyền dân sự và chính trị;
– Đôi khi là nơi mà cá nhân có bất động sản nhiều hơn cả.
Ở Ba Lan, Luật dành cho người nước ngoài năm 1962 (hiện nay vẫn còn hiệu lực) quy định: Đối với người có nhiều quốc tịch, trong đó có quốc tịch Ba Lan thì sẽ áp dụng pháp luật của Ba Lan. Trong trường hợp người đó có nhiều quốc tịch nước ngoài mà không có quốc tịch Ba Lan thì áp dụng pháp luật của nước người đó có nơi thường trú dài nhất hoặc có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ nhất. Ở Cộng hòa Pháp, để xác định luật áp dụng đối với người có nhiều quốc tịch, pháp luật chia ra 2 trường hợp cụ thể:
Thứ nhất, đối với người có nhiều quốc tịch không phải là quốc tịch Pháp: Khi xét xử vụ việc liên quan đến những người này, toà án Pháp xác định quốc tịch thực tế của họ.
Thứ hai, đối với người có quốc tịch Pháp và quốc tịch nước ngoài: Khi xét xử vụ việc liên quan đến những người này, toà án ưu tiên áp dụng luật của Pháp. Ngoài ra, thực tiễn giải quyết các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài, các
– Áp dụng pháp luật của tất cả các nước có liên quan. Theo giải pháp này, toà án có thể áp dụng đồng thời pháp luật của tất cả các nước có liên quan, nghĩa là mọi quyết định đưa ra đều phải phù hợp với quy định pháp luật của tất cả các nước có liên quan hoặc áp dụng “phân phối” pháp luật của các nước có liên quan (mỗi chủ thể chịu sự điều chỉnh theo pháp luật của quốc gia mà mình mang quốc tịch).
– Áp dụng pháp luật của một trong các nước có liên quan. Theo giải pháp này, toà án có thể áp dụng pháp luật của Pháp nếu một trong đương sự là công dân Pháp hoặc áp dụng pháp luật của nước có liên hệ mật thiết nhất đến vụ việc. – Áp dụng pháp luật của nước nơi đương sự có cư trú chung.
Theo pháp luật Việt Nam, căn cứ áp dụng pháp luật đối với người nước ngoài có hai hay nhiều quốc tịch nước ngoài được quy định tại khoản 2 Điều 672
Theo quy định trên, có hai căn cứ áp dụng pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự mà người có hai hay nhiều quốc tịch tham gia là:
– Áp dụng pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch và cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự.
– Áp dụng pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch và có mối quan hệ gắn bó nhất về quyền và nghĩa vụ công dân.
Như vậy, việc xác định luật áp dụng đối với người nhiều quốc tịch theo quy định của pháp luật Việt Nam cơ bản phù hợp với pháp luật của nhiều nước và các điều ước quốc tế hữu quan.
2. Luật áp dụng đối với người không quốc tịch
Không quốc tịch là tình trạng pháp lý một người không có quốc tịch của một nước nào. Người không quốc tịch không phải thực hiện nghĩa vụ công dân đối với quốc gia nào nhưng họ gặp bất lợi lớn, đó là khi cư trú ở nước sở tại thì địa vị pháp lý của người không quốc tịch rất thấp và bị hạn chế so với công dân nước sở tại và người có quốc tịch nước ngoài. Họ không được hưởng các quyền mà các bộ phận khác của dân cư được hưởng trên cơ sở điều ước quốc tế giữa các quốc gia hữu quan, họ không được hưởng sự bảo hộ ngoại giao của bất kỳ nước nào.
Hiện tượng không quốc tịch xuất hiện trong các trường hợp sau:
– Có sự xung đột pháp luật của các nước về vấn đề quốc tịch;
– Khi một người đã mất quốc tịch cũ nhưng chưa có quốc tịch mới;
– Khi trẻ em được sinh ra trên lãnh thổ của nước áp dụng nguyên tắc quyền huyết thống mà cha, mẹ là người không quốc tịch.
Trong phạm vi quốc tế, để hạn chế tình trạng không quốc tịch, các nước đã ký kết nhiều điều ước quốc tế về vấn đề quốc tịch như Định ước cuối cùng của Hội nghị Lahay năm 1930, Công ước La Haye năm 1930 về một số vấn đề liên quan tới xung đột luật quốc tịch và đặc biệt Công ước về hạn chế tình trạng không quốc tịch năm 1961. Theo Điều 1 của Công ước năm 1961 thì nước ký kết sẽ cho những người sinh ra trên lãnh thổ của nước mình mà có thể bị rơi vào tình trạng không quốc tịch được hưởng quốc tịch nước mình theo đơn xin của đương sự hoặc người đại diện của đương sự cho cơ quan có thẩm quyền thích hợp, phù hợp với quy định của pháp luật nước đó. Nước ký kết có thể cho hưởng quốc tịch của nước mình theo một hoặc các điều kiện sau:
– Đơn xin phải nộp trong khoảng thời gian do nước ký kết đó quy định nhưng bắt đầu không được muộn hơn 18 tuổi và kết thúc không được trước lúc 21 tuổi. Tuy nhiên, đương sự được phép ít nhất 1 năm để có thể tự làm đơn xin;
– Đương sự phải là người không phạm tội chống lại an ninh quốc gia của nước ký kết, cũng như không bị kết án phạt tù 5 năm hoặc nhiều hơn về tội phạm hình sự;
– Đương sự phải cư trú thường xuyên trên lãnh thổ của nước ký kết trong khoảng thời gian nhất định do nước đó quy định nhưng không được quá 5 năm trước khi nộp đơn xin hoặc tổng cộng không được quá 10 năm;
– Đương sự phải thường xuyên ở trong tình trạng không quốc tịch. Những điều kiện gia nhập quốc tịch ghi nhận tại Điều 1 của Công ước năm 1961 là những điều kiện chung, trên thực tế mỗi quốc gia có thể áp dụng một hoặc tất cả các điều kiện trên và có thể quy định thêm những điều kiện khác.
Như vậy, các quốc gia, các tổ chức quốc tế đã có những nỗ lực lớn trong hợp tác quốc tế nhằm hạn chế tình trạng không quốc tịch. Tuy nhiên, hiện nay tình trạng này vẫn xảy ra trong thực tiễn. Khi người không quốc tịch tham gia vào quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, pháp luật các nước thường điều chỉnh theo pháp luật của nước mà họ cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự.