Căn cứ, điều kiện áp dụng án treo BLHS năm 2015. Theo đó, việc áp dụng án treo phải tuân thủ những điều kiện nào của pháp luật?
Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì
Mục lục bài viết
1. Quyết định hình phạt tù không quá 03 năm:
Đây là một trong các căn cứ quan trọng nhất và là căn cứ đầu tiên để được xem xét cho hưởng án treo. Người bị áp dụng hình phạt tù không quá 03 năm, không phân biệt tội gì thì có thể được xem xét cho hưởng án treo; trường hợp người bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội mà khi tổng hợp hình phạt không quá 03 năm tù thì cũng có thể được hưởng án treo. Như vậy,
chúng ta có một câu hỏi đặt ra là tại sao hình phạt tù không quá 3 năm mới được xem xét cho hưởng án treo mà không phải trên 3 năm. Điều này xuất phát từ đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước và sự vận động của xã hội. Khi Tòa án tuyên mức hình phạt tù thì phải dựa trên tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, trên cơ sở tuân thủ những căn cứ để quyết định hình phạt, đồng thời tuân theo những nguyên tắc của PLHS Việt Nam để áp dụng hình phạt cho từng trường hợp cụ thể, tránh những trường hợp vì có ý định từ trước là sẽ cho người bị kết án hưởng án treo nên Tòa án tuyên mức án thấp hơn thời hạn 03 năm tù giam để cho người đó được hưởng án treo, hoặc đáng lẽ bị cáo được hưởng án treo nhưng Tòa án có ý định từ trước là không cho hưởng án treo nên Tòa án đã tuyên mức án cao hơn 03 năm để không cho bị cáo được hưởng án treo.
BLHS năm 1985 quy định “Khi xử phạt tù không quá năm năm, căn cứ vào thân nhân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Toà án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm”. Tuy nhiên tại khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1992 quy định “Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Toà án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm”. Khoản 1 Điều 60 BLHS năm 1999 cũng quy định căn cứ đầu tiên để xem xét cho hưởng án treo là khi quyết định hình phạt tù không quá ba năm. Kế thừa những quy định trước đây của Bộ luật hình sự, BLHS 2015 quy định:
Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.
Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 02/2018 ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán
2. Nhân thân người phạm tội:
Nhân thân người phạm tội là yếu tố quan trọng thứ hai cần xem xét sau khi đã ấn định mức hình phạt tù nằm trong biên độ được xem xét cho hưởng án treo. Nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc điểm, dấu hiệu, các đặc tính thể hiện bản chất xã hội của người thực hiện hành vi phạm tội như độ tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, hoàn cảnh gia đình, đối tượng chính sách, đời sống kinh tế, ý thức pháp luật, tôn giáo, tiền án, tiền sự Khi xem xét nhân thân người phạm tội với vai trò là một trong các cơ sở của việc quy định TNHS thì độ tuổi chịu TNHS, tiền án, tiền sự của người phạm tội và một số đặc điểm khác thuộc nhân thân người phạm tội là những vấn đề rất quan trọng. Để được hưởng án treo điều kiện cần có là người phạm tội phải có nhân thân tốt. Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 02/2018 ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc Hướng dẫn áp dụng Điều 65 BLHS sự quy định: “Được coi là có nhân thân tốt nếu ngoài lần phạm tội này, người phạm tội luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc. Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 06 tháng, nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo”.
Điều 4 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 quy định những trường hợp không cho hưởng án treo là:
1. Người phạm tội là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
2. Người thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn và đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng đề nghị truy nã.
3. Người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách; người đang được hưởng án treo bị xét xử về một tội phạm khác thực hiện trước khi được hưởng án treo.
4. Người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội, trừ trường hợp người phạm tội là người dưới 18 tuổi.
5. Người phạm tội nhiều lần, trừ trường hợp người phạm tội là người dưới 18 tuổi.
6. Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Hướng dẫn trên là cụ thể, rõ ràng và dễ áp dụng khi xét xử; hạn chế việc HĐXX lúng túng khi đánh giá về nhân thân người phạm tội. Khi xét về nhân thân người phạm tội cần phải xét một cách toàn diện, hệ thống tất cả các yếu tố thuộc về nhân thân, đồng thời kết hợp với thái độ của họ sau khi phạm tội cũng như trong từng trường hợp cụ thể về người phạm tội và đối chiếu với yêu cầu phòng ngừa chung để xem xét có cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù hay không. Mặt khác, khi áp dụng những căn cứ về nhân thân đòi hỏi phải có nhận thức đúng đắn về bản chất, nội dung và ý nghĩa pháp lý của từng căn cứ, cũng như mối liên hệ giữa các căn cứ này với nhau để có thể áp dụng được một cách đúng đắn điều kiện về nhân thân người phạm tội để có thể đưa ra được một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội cũng như biện pháp thi hành hình phạt tù một cách có hiệu quả để đạt được mục đích cải tạo, giáo dục, răn đe người phạm tội cũng như mục đích phòng chống tội phạm nói chung.
Nhân thân tốt vừa là điều kiện cần, vừa có ý nghĩa đối với việc xem xét áp dụng án treo. Nhân thân phản ánh khả năng tự cải tạo, giáo dục người bị kết án trở thành người có ích cho xã hội, những người có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, sau khi phạm tội đã ăn năn hối cải và thành khẩn nhận tội thì họ có nhiều khả năng tự giáo dục, cải tạo hơn các đối tượng khác nên cần được xem xét để cho hưởng án treo. Đây cũng là đặc điểm có liên quan đến việc đạt được mục đích của hình phạt, vì mục đích của hình phạt là cải tạo, giáo dục những người bị kết án, giáo dục các thành viên khác trong xã hội tuân thủ pháp luật, cũng như hỗ trợ cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm đạt hiệu quả.
3. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là căn cứ tiếp theo để xem xét cho hưởng án treo. Nghị quyết 02/2018 ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc Hướng dẫn áp dụng Điều 65 BLHS quy định:
Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Khoản 1 Điều 51 BLHS liệt kê 22 tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định từ điểm a đến điểm x bao gồm:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết,
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Khoản 2 Điều 51 BLHS quy định “Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án”.
So với BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 bổ sung thêm tình tiết “đầu thứ” là tình tiết giảm nhẹ nhưng khi quyết định hình phạt phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. Khoản 2 điều 51 BLHS quy định những tình tiết giảm nhẹ này phải được ghi rõ trong bản án, vì những tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại khoản 1 điều 51 đã quy định những tình tiết phổ biến, điển hình phản ánh đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội mà không thể quy định được hết những trường hợp cá biệt, đặc thù cho từng trường hợp cụ thể. Cho nên BLHS quy định áp dụng khoản 2 điều 46 là các quy phạm lựa chọn để áp dụng các TTGN trách nhiệm hình sự theo hướng có lợi cho bị cáo. Đối với “tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ” tại điểm c mục 5 Nghị quyết số 01 ngày 04/8/2000 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định chung của BLHS năm 1999 quy định những tình tiết sau đây được coi là các tình tiết giảm nhẹ khác nhưng phải ghi rõ trong bản án
– Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, người mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước:
– Bị cáo là thương binh hoặc có người thân thích như vợ, chồng, cha, mẹ, con (con đẻ hoặc con nuôi), anh, chị, em ruột là liệt sỹ;
– Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;
– Người bị hại cũng có lỗi;
– Thiệt hại do lỗi của người thứ ba,
– Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo;
– Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khỏe của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản;
– Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu.
Ngoài ra, khi xét xử, tùy từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.
Đối với tình tiết người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sỹ, người có công với cách mạng theo hướng dẫn tại Nghị quyết này quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999 thì nay được quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 BLHS, đây là sự bổ sung rất phù hợp với thực tiễn. Quy định về các tình tiết giảm nhẹ khác như trên là phù hợp với tình hình thực tế và có giá trị về mặt khoa học pháp lý.
So với BLHS năm 1985, khoản 3 Điều 46 BLHS năm 1999 thì khoản 3 Điều 51 BLHS năm 2015 quy định bổ sung “các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt”.
Ví dụ: Một người giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính (khoản 1 Điều 126 BLHS năm 2015) thì khi quyết định hình phạt không được áp dụng điểm c khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 đối với người đó.
Khi người phạm tội có các tình tiết giảm nhẹ theo quy định thì xem xét cho hưởng án treo. Trong trường hợp có TTTN thì theo khoản 3 Điều 2 Nghị quyết 02/2018 ngày 15/5/2018 thì: Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Trường hợp có TTTN trách nhiệm hình sự thì số TTGN trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số TTTN trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Như vậy, nếu có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì phải tăng số lượng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì mới được xem xét cho hưởng án treo. Quy định này vừa bảo đảm tính khoa học, vừa bảo đảm sự công bằng khi quyết định hình phạt. Khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 quy định 22 tình tiết giảm nhẹ so với 18 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 và khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 quy định 15 tình tiết tăng nặng so với 14 tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999. So với BLHS năm 1999 thì BLHS năm 2015 quy định nhiều tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng hơn. Đối với người có nhiều tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 52 BLHS thì dù họ có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có thể hơn tình tiết tăng nặng hai tình tiết trở lên, thì việc áp dụng án treo với những người này cũng cần phải rất chặt chẽ, trên tinh thần chung là hạn chế việc xét hưởng án treo đối với những người này. Vì với người có nhiều tình tiết tăng nặng, cho thấy được phần nào thái độ phạm tội, ý thức phạm tội của họ cũng như khả năng tự cải tạo của họ là rất khó. Việc xem xét các tình tiết giảm nhẹ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc áp dụng án treo. Một người có nhiều tình tiết giảm nhẹ cho thấy được khả năng tự giáo dục, cải tạo của họ cũng như khả năng có thể gây nguy hiểm cho xã hội nếu như để họ ngoài xã hội là cao hay thấp. Trên cơ sở đánh giá, xem xét các tình tiết giảm nhẹ, Toà án có thể ra quyết định hình phạt cũng như xem xét cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo hay không.
Khi xem xét việc cho người phạm tội được hưởng án treo, Hội đồng xét xử chủ yếu dựa vào ba căn cứ trên là mức phạt tù, nhân thân của người bị kết án và các TTGN, phân tích từng căn cứ và đánh giá các căn cứ đó, đồng thời đối chiếu với yêu cầu phòng ngừa và chống tội phạm ở từng loại tội trong môi trường xã hội cụ thể để có thể kết luận về khả năng tự giáo dục, cải tạo của người bị kết án. Ngoài các căn cứ trên, khi xem xét cho người phạm tội được hưởng án treo hay không thì Tòa án còn phải xem xét điều kiện về nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục họ và xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.