Việt Bắc diễn tả cuộc chia tay quyến luyến giữa người dân Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến cùng với những kỉ niệm kháng chiến hào hùng, nghĩa tình thông qua cách hát đối đáp như trong ca dao. Dưới đây là bài viết về cảm nhận bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu hay nhất.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý cảm nhận bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu:
Mở bài:
Giới thiệu về tác phẩm
Dẫn dắt vào yêu cầu của đề bài: Cảm nhận bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu
Thân bài:
Lời Tâm sự và tình cảm của người ở lại
– Tám câu thơ đầu bao trùm là tâm trạng lưu luyến trong giây phút chia tay:
-
Điệp cấu trúc “mình về mình có nhớ” khơi gợi lại những kỉ niệm trong “mười lăm năm ấy với bao nghĩa tình.
-
Cách xưng hô như trong điệu hát giao duyên “mình – ta” khiến cuộc chia tay trở nên giản dị, đằm thắm, sâu lắng.
-
Tiếp là nỗi lòng của cả người ở lại trong tâm trạng: “da diết”, “bâng khuâng” và “bồn chồn”; với hình ảnh thân tình “áo chàm”, “cầm tay nhau”.
=> Cảm xúc sâu sắc, nỗi bâng khuâng, sự xao xuyến của cả người đi, người ở.
– Mười hai câu tiếp theo, với điệp từ “nhớ” nhắn nhủ bằng câu hỏi:
-
Nhớ đến thiên nhiên Việt Bắc những ngày kháng chiến với mưa nguồn, suối lũ, trám bùi, măng mai.
-
Nhớ đến ân tình trong gian khổ: “miếng cơm chấm muối” mà vẫn “đậm đà lòng son”.
-
Nhớ đến thời gian kháng chiến cách mạng: kháng Nhật, hoạt động Việt Minh, khởi nghĩa tại Tân Trào, Hồng Thái, …
-
Đại từ “mình” thể hiện sự thân thiết giữa người ở, người đi một chân thành.
=> Nỗi nhớ gắn kiền với những sự kiện nổi bật của cuộc cách mạng.
Nỗi nhớ và tâm trạng của người ra đi
– Bốn câu thơ tiếp là tình thủy chung, mặn mà, cùng nhau gắn bó, thấu hiểu.
– Người đi nhớ đến thiên nhiên núi rừng Việt Bắc: “Trăng lên”, “nắng chiều”, “bản khói cùng sương”, “rừng nứa bờ tre” qua bốn mùa xuân, hạ, thu, đông.
– Nhớ đến con người vùng đất Việt Bắc:
-
Những con người vất vả với tấm lòng thủy chung, cùng sẻ chia mọi “đắng cay ngọt bùi” trong chặng đường kháng chiến: “chia củ sắn lùi”, cùng nhau “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”.
-
Nhớ đến những kỉ niệm giữa bộ đội và nhân dân Việt Bắc: “lớp học i tờ”, những lúc vui vẻ như “giờ liên hoan” hay khúc “ca vang núi đèo”.
-
Nhớ hình ảnh con người mộc mạc, giản dị khi lao động: “người mẹ”, “cô em gái”.
– Nhớ kỉ niệm quân dân đoàn kết, cả chiến khu một lòng đánh giặc: “ta cùng đánh Tây”; khí thế hào hùng trong các trận đánh qua một loạt hình ảnh so sánh “rầm rập như là đất rung”, “điệp điệp trùng trùng”, “dân công đỏ đuốc từng đoàn”,…
– Nhớ những chiến công thắng trận vang dội: “tin vui thắng trận trăm miền… núi Hồng”
=> Nhịp thơ dồn dập như diễn tả lại bước hành quân của tinh thần kháng chiến cách mạng tạo nên một bức tranh hoành tráng ca ngợi sức mạnh của nhân dân ta.
Niềm tự hào về vùng đất Việt Bắc Cách mạng.
– Nhớ những hình ảnh về nơi nguồn cội cách mạng: ngọn cờ rực rỡ sao vàng, luôn gìn giữ trong tim trung ương Đảng, chính phủ và Bác Hồ.
– Qua đó thể hiện niềm tin vào khả năng lãnh đạo của Đảng, niềm tự hào vào những chiến công vang dội tại Việt Bắc.
– Khẳng định vai trò Việt Bắc trong cuộc cách mạng và lời thề son sắt
Kết bài:
Nêu lại cảm nhận chung nhất về bài thơ
2. Cảm nhận bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu ngắn gọn nhất:
Bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu được sáng tác khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta giành thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng, chiến sĩ rời Việt Bắc về thủ đô Hà Nội. Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng, Tố Hữu đã phản ánh sâu sắc mười lăm năm kháng chiến của chiến sĩ Việt Bắc gắn bó với người dân nơi đây.
Bài thơ “Việt Bắc” diễn tả cuộc chia tay quyến luyến giữa người dân Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến cùng với những kỉ niệm kháng chiến hào hùng, nghĩa tình thông qua cách hát đối đáp như trong ca dao. Cuộc chia tay giữa dân quân giống như cuộc chia tay của cặp tình nhân đầy nỗi niềm khắc khoải, da diết. Bài thơ “Việt Bắc” được tác giả mượn màu yêu thương để nói về tình cảm cách mạng. Cặp đại từ mình và ta được hiện lên với động từ “nhớ” được lặp lại tạo nên âm hưởng chủ đạo là nỗi nhớ, sự ân tình và lòng biết ơn.
Việt Bắc hiện lên trong những ngày kháng chiến gian khổ sông suối mưa rơi, mây giăng sương. Khi ấy quân dân cùng chịu đựng những gian khổ với những bữa cơm chấm muối cùng gắng sức chiến đấu chống kẻ thù chung. Hình thức đối lập giữa cảnh bật bên ngoài đầy vẻ xám xịt là bên trong tấm lòng son sắt. Cuộc sống tuy nghèo khó nhưng lại rất thâm tình. “Mình” và “ta” đã viết lên trang sử hào hùng của dân tộc với những chiến thắng ở Tân Trào, Hồng Thái vì vậy khi về lại thành phố, xin đừng thay lòng.
Đáp lại lời nhắn nhủ của người ở lại người ra đi cũng trả lời khẳng định sẽ mãi không quên đã làm yên lòng người ở lại. Đó chính là mối quan hệ khăng khít giữa Việt Bắc với cách mạng trong bản hùng ca kháng chiến của quân và dân Việt Bắc. Người ra đi nhớ thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp, nhớ những con người Việt Bắc giản dị, thủy chung và nhớ về cuộc kháng chiến anh dũng. Núi rừng Việt Bắc trở thành bức lũy sắt che chở bộ đội, mỗi ngọn núi, con sông gắn liền với những chiến công lừng lẫy của quân và dân ta trong những đêm hành quân, những đoàn xe tấp nập. Tiếp theo tác giả chuyển sang giọng thơ trang trọng khi nhớ về Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ địa kháng chiến, niềm tin, hy vọng của cả dân tộc.
“Việt Bắc” là một kiệt tác của của thơ cách mạng kháng chiến, thể hiện tài năng của nhà thơ Tố Hữu khi thể hiện những tình cảm, tư tưởng mới mẻ nhưng đậm đà bản sắc dân tộc về vùng đất cách mạng kháng chiến cùng tình cảm gắn bó sắc son của nhân dân và cán bộ cách mạng.
3. Mẫu bài văn cảm nhận về bài thơ Việt Bắc hay nhất:
Nhà thơ Tố Hữu được coi như một lá cờ tiên phong của phong trào thơ cách mạng nước ta với những tác phẩm trường tồn với thời gian như “Từ ấy” “Khi con tu hú” hay “Việt Bắc”.
Những tác phẩm của Tố Hữu viết về đề tài yêu nước, cách mạng mang màu sắc chính trị nhưng chưa bao giờ khô khan thiếu sức truyền cảm. Mà ngược lại trong tác phẩm của ông nhiều nghệ thuật đặc sắc khiến cho mọi người đều cảm nhận được cái hay cái đẹp của nó.
Việt Bắc là một tác phẩm thơ trường thiên dài được Tố Hữu hoàn thành vào tháng 1 năm 1954, đúng vào thời điểm Đảng và Nhà nước ta sắp rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình được lập lại, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng.
Bài thơ này tiêu biểu cho những nghĩ suy, tình cảm cao đẹp của những con người kháng chiến đối với miền đất quê hương cách mạng, với đất nước và nhân dân, với kháng chiến và cách mạng. Cũng có thể nói đây là khúc hát tâm tình chung không những của con người kháng chiến, của nhân dân ta mà động đến chỗ sâu xa của truyền thống ân nghĩa, thuỷ chung của dân tộc hoà vào, tiếp nối và khơi sâu thêm nét truyền thống cao đẹp đó.
Việt Bắc dựng ra một hoàn cảnh đặc biệt để bộc lộ những cảm xúc trữ tình dào dạt. Đó là một cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa kẻ ở với người đi, giữa Việt Bắc với cán bộ về xuôi bâng khuâng và bịn rịn. Đó cũng là cuộc chia tay của những người đã từng gắn bó sâu nặng với nhau: Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. Họ từng cùng nhau nằm gai nếm mật, sẻ ngọt chia bùi. Giờ đây, trong phút giây chia tay, họ cùng nhau gợi lại bao kỉ niệm về những ngày tháng đã qua. Họ khẳng định nghĩa tình bền chặt và hẹn ước về một ngày mai tươi sáng.
Việt Bắc vận dụng lối hát giao duyên đối đáp nam nữ của dân ca vì vậy thường sử dụng lối xưng hô thân mật tình tứ rất quen thuộc là: ta, mình. Ta thường dùng ở ngôi thứ nhất. Mình thường dùng ở ngôi thứ hai. Tuỳ theo văn cảnh, ta và mình có thể là Việt Bắc hay người cán bộ về xuôi. Nhưng nhiều lúc lẫn lộn, tuy hai mà một vì mình hay ta cũng đều là người cách mạng cả, cũng đều là ân tình sâu nặng với nhau “tuy hai mà một” cả.
Dù là kết cấu đối đáp, nhưng ở Việt Bắc không chỉ là lời hỏi, lời đáp mà còn là sự hô ứng, đồng vọng của cùng một tâm trạng. Lời đáp, ngoài việc trả lời cho những điều đặt ra của lời hỏi, còn là sự mở rộng, làm phong phú thêm cho những ý tình đã được gợi ra trong lời hỏi. Cũng có khi cả lời hỏi và lời đáp đã trở thành lời đồng vọng ngân vang lên những tình cảm chung.
Thật ra, nếu nhìn sâu hơn vào kết cấu của bài thơ, chúng ta thấy được đối thoại chỉ là lớp vỏ ngoài còn ở chiều sâu bên trong chính là lời độc thoại. Hình thức độc thoại là khả năng phân thân của cái “tôi” trữ tình để hoá thân vào đối tượng, khiến tâm trạng được thể hiện sâu sắc dễ lay động lòng người hơn.
Bài giảng văn trong sách giáo khoa là đoạn mở đầu và phần một là phần đặc sắc hơn cả của bài thơ. Đoạn trích là đoạn hoài niệm về một Việt Bắc gian khổ, vẻ vang của cách mạng và kháng chiến, nay đã trở thành kỉ niệm sâu nặng khôn nguôi trong lòng người. Toàn phần trích giảng thông qua nỗi nhớ da diết, thể hiện nghĩa tình cách mạng, tình cảm thủy chung son sắt của người cán bộ về xuôi đối với quê hương Việt Bắc.
Mở ra bài thơ là một cảnh chia tay đầy quyến luyến giữa hai người: kẻ ở và người đi. Đó là Việt Bắc và người cán bộ cách mạng sắp về xuôi. Cả hai được nhà thơ hình tượng hoá như một đôi bạn tình. Đôi bạn tình này đã cùng nhau chia bùi sẻ ngọt, đồng cam cộng khổ trong suốt thời gian mười lăm năm ân sâu nghĩa nặng.
Nhà thơ sử dụng cặp đại từ nhân xưng mình – ta thật tự nhiên, sinh động và linh hoạt mang nhiều sắc thái ngữ nghĩa làm bài thơ dạt dào xúc cảm đời thường với những lời nhắn nhủ, dặn dò, hò hẹn, thề nguyền… vừa rất riêng tư thể hiện được những nghĩa tình cách mạng rộng lớn, sâu sắc có tính khái quát cao mang yếu tố trữ tình sử thi rõ rệt. Thật ra, hình thức đối đáp ở đây chỉ là một dụng ý nghệ thuật khơi gợi bộc lộ tâm trạng và tạo ra được sự hô ứng và đồng vọng của xúc cảm trữ tình.
Bao trùm trong tâm trạng của kẻ ở lẫn người đi là một nỗi nhớ da diết, mênh mang, một niềm hoài niệm thiết tha, sâu nặng về những tháng ngày vừa qua trong kháng chiến và cách mạng. Nỗi nhớ, niềm hoài niệm đó đã khơi gợi lên, tái hiện lại bức tranh về Việt Bắc với cảnh thiên nhiên, núi rừng, với những cảnh sinh hoạt của nhân dân, cơ quan và cán bộ, với mọi hoạt động khẩn trương, sôi nổi trong cuộc sống kháng chiến gian khổ mà hào hùng.
Tất cả từ lâu đã lắng vào kỉ niệm giờ đây theo dòng hồi tưởng của tác giả lại hiện lên. Những bức tranh đó có nhiều sắc độ khác nhau: lúc rõ đến từng màu sắc, đường nét, chi tiết (Nhớ người mẹ nắng cháy lưng, Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi, Nhớ cô em gái hái măng một mình…) lúc lại xa thẳm mơ hồ (Nhớ gì như nhớ người yêu, Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương, Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù, Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều, Chày đêm nện cối đều đều suối xa), lúc cô đọng lại thành biểu tượng (Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai, Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng…)
Nỗi nhớ da diết mênh mang của nhà thơ ở đây là nỗi nhớ về thiên nhiên núi rừng Việt Bắc, nỗi nhớ con người, cuộc sống ở Việt Bắc và những kỉ niệm khó quên về cuộc sống kháng chiến gian khổ hào hùng ở nơi đây.
Hình ảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc hiện lên trong bài thơ với những vẻ đẹp đa dạng trong nhiều thời gian, không gian khác nhau, trong các thời tiết sương sớm, nắng chiều, trăng khuya và các mùa xuân hạ thu đông thay đổi, nhưng lúc nào cũng hài hoà gắn bó với con người. Bóng dáng con người khiến cảnh đẹp hoang sơ bớt phần hiu quạnh. Đặc sắc hơn chính là đoạn thơ:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao cài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
Nhiều người cho rằng bút pháp tả cảnh của Tố Hữu ở đoạn thơ này đạt đến vẻ đẹp cổ điển như thể Truyện Kiều. Cuộc sống của con người Việt Bắc, tiếp đó, cũng thể hiện ra trong nhiều khung cảnh bình dị, quen thuộc khác nhau. Có khung cảnh thơ mộng, thanh binh:
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
Nhưng cũng có khung cảnh nghèo khó cơ cực mà thấm đẫm nghĩa tình sâu nặng:
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô
Lại có khung cảnh gắn với những kỉ niệm riêng tư:
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Tuy nhiên, xúc động hơn cả là những câu thơ tái hiện cảnh sinh hoạt và cuộc sống bình dị của đồng bào miền núi tuy gian khổ, thiếu thốn nhưng nghĩa tình son sắt thuỷ chung với cách mạng và kháng chiến: Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son.
Liền một mạch thơ là hình ảnh Việt Bắc kháng chiến với những bức tranh rộng lớn, hào hùng, sôi động với hình ảnh những đoàn bộ đội dân công nao nức trên các nẻo đường:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay…
Khép lại phần 1 của bài thơ là cảnh một cuộc họp của Trung ương Đảng, Chính phủ bộ máy đầu não của cuộc kháng chiến, thật giản dị mà trang nghiêm gần gũi được thể hiện trong tám câu thơ sáng đẹp, rõ ràng. Để khẳng định niềm tin yêu của nhân dân cả nước với Việt Bắc, Tố Hữu lại sử dụng những vần thơ thuần chất dân tộc vừa trang trọng vừa thắm thiết nghĩa tình:
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.
Như thế, Việt Bắc là bài thơ dài làm theo thể loại lục bát truyền thống, lại dùng cả hình thức đối đáp thường gặp trong các điệu hát quan họ hoặc dân ca ca dao. Nhờ hình thức đối đáp ta – mình, mình – ta gắn bó, quấn quýt tạo nên cảm giác thân thuộc, gần gũi với bất kì một người Việt Nam nào. Vì vậy, bài thơ đậm đà chất trữ tình, đằm thắm tinh tế về tình cảm, dìu dặt về nhạc điệu. Việt Bắc của Tố Hữu xứng danh là đỉnh cao của văn học cách mạng ở nước ta.
4. Cảm nhận về bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu:
Tố Hữu được coi là cây đại thụ của làng thơ ca Việt Nam hiện đại. Thơ ca của ông phần nhiều gắn bó sâu sắc với cách mạng và kháng chiến với những tác phẩm có sự hòa quyện chặt chẽ và sâu sắc giữa nội dung trữ tình chính trị và nghệ thuật biểu hiện đậm đà tính dân tộc. Việt Bắc là một trong những bài thơ có độ phổ biến với công chúng bạn đọc nhiều nhất của ông. Qua bài thơ bạn đọc có thể cảm nhận được một thời đại cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, nhất là nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước. Thấy rõ nội dung bài thơ đậm tính dân tộc, làm dào dạt thêm tình yêu quê hương đất nước trong tâm hồn mỗi con người Việt Nam.
Bài thơ Việt Bắc được viết trong chặng đường thơ vào giai đoạn (1947-1954) trong kháng chiến chống Pháp. Bài thơ như một bản hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng. Ca ngợi những con người kháng chiến là Đảng và Bác Hồ. Trong tác phẩm nhiều tình cảm sâu đậm được thể hiện: tình quân dân, miền xuôi và miền ngược, tình yêu đất nước…. Bài thơ được coi là một trong những thành tựu xuất sắc của văn học kháng chiến chống Pháp đậm đà tính dân tộc và sử thi hùng tráng.
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lịch sử dân tộc chứ không phải là cảm hứng thế sự – đời tư nên con người trong thơ Tố Hữu là con người của sự nghiệp chung, mang phẩm chất tiêu biểu cho cả dân tộc, mang tầm vóc lịch sử và thời đại. Giọng thơ mang chất tâm tình, rất tự nhiên, đằm thắm, chân thành, đậm đà tính dân tộc khi vận dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc lục bát ca dao dạt dào âm hưởng, nghĩa tình của hồn thơ dân tộc. Sử dụng những từ ngữ, những cách nói quen thuộc với dân tộc. Phát huy cao độ tính nhạc, sử dụng tài tình các từ láy, các thanh điệu, các vần thơ,….Sử dụng lối ví von, chuyển nghĩa rất quen thuộc, gần gũi với ca dao, dân ca.
Khúc hồi tưởng ân tình về Việt Bắc trong những năm cách mạng và kháng chiến gian khổ, bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến, bản tình ca về nghĩa tình cách mạng và kháng chiến được mở đầu:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Những câu thơ đầy xúc động về cuộc chia tay của những người từng gắn bó, biết bao kỷ niệm ân tình thuỷ chung ùa về trong trí nghĩ của tác giả. Diễn biến tâm trạng được tổ chức theo lối đối đáp giao duyên trong ca dao – dân ca: bên hỏi, bên đáp, người bày tỏ, người hô ứng. Hỏi và đáp điều mở ra bao nhiêu kỷ niệm về cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, bao nỗi niềm nhớ thương. Tác giả sử dụng đại từ “ Mình”, “Ta” ở hai đầu câu thơ tạo cảm giác xa xôi, cách biệt, ở giữa là tâm trạng băn khoăn của người ở lại: không biết bạn còn thủy chung trước bao đổi thay cám dỗ của cuộc sống mới. Câu hỏi tu từ: Mình có nhớ ta”, “ Mình có nhớ không?” càng làm cho người ra đi thêm lưu luyến, cứ vang lên như một niềm khắc khoải khôn nguôi. Người ở lại nhắc lại kỉ niệm 15 năm kháng chiến gian khổ nhưng nghĩa tình. Nhớ núi, nhớ rừng, thực chất là nhớ ngọn nguồn của cách mạng.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” thể hiện tâm trạng khá phức tạp, vừa hụt hẫng, nhớ nhung người ở lại, vừa nóng lòng muốn trở về miền xuôi nhưng còn mang nặng tình cảm người ở lại. Sử dụng hình ảnh hoán dụ: “Áo chàm” tượng trưng cho đồng bào Việt Bắc – những con người lam lũ, gian khổ nhưng ân tình, thủy chung. Gợi lên lưu luyến, bịn rịn không muốn rời. Sự hô ứng ngôn từ này tạo sự đồng vọng trong lòng người. Thực chất đoạn thơ không chỉ đơn thuần là lời của người ra đi mà cả tâm trạng, lời của người ở lại, vì họ rất thấu hiểu nỗi lòng, tâm trạng của nhau. Nên bên ngoài như là lời đối thoại nhưng thực chất là lời độc thoại của chính nhà thơ – người chiến sĩ cách mạng. Qua đó ta càng thấy được mối ân tình, ân nghĩa của người chiến sĩ cách mạng với đồng bào Việt Bắc.
Kỉ niệm trong 15 năm kháng chiến được tác giả miêu tả một cách rất chi tiết:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai? …..
Bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng, vừa hiện thực vừa thi vị, mang nét riêng độc đáo, khác hẳn với những vùng quê khác với những cảnh vật núi rừng Việc Bắc hiện lên với vẻ đẹp vừa hiện thực vừa mơ mộng:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Nỗi nhớ Việc Bắc được so sánh “như nhớ người yêu” thể hiện rằng nỗi nhớ thật da diết, mãnh liệt, cháy bỏng. Điệp từ “nhớ” được đặt ở đầu câu như liệt kê ra từng nỗi nhớ cụ thể: nhớ ánh nắng ban chiều, ánh trăng buổi tối, những bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya, những núi rừng, sông suối mang những cái tên thân thuộc. Nỗi nhớ bao trùm khắp cả không gian và thời gian. Nỗi cháy bỏng, khát khao gắn với kỉ niệm thơ mộng của núi rừng, thể hiện tình cảm gắn bó tha thiết. Đẹp nhất trong nỗi nhớ là sự hòa quyện thắm thiết giữa cảnh với người:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp đa dạng, sinh động, thay đổi theo từng mùa. Mùa đông tươi tắn, không lạnh lẽo với hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi”, gắn bó với thiên nhiên là những con người bình dị, người đi làm nương rẫy. Mùa xuân trong sáng, tinh khôi và đầy sức sống với “mơ nở trắng rừng”. Mùa hè rực rỡ “ Rừng phách đổ vàng”, sôi động với âm thanh “ve kêu”, con người đi hái măng giữa rừng tre nứa, đó là những con người cần mẫn, chịu thương chịu khó. Mùa thu yên ả, thanh bình, lãng mạn với hình ảnh “trăng rọi hòa bình” cùng với đó là những con người ân tình, ân nghĩa. Bằng những việc làm nhỏ bé, họ góp phần tạo nên sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến. Tuy họ nghèo về vật chất nhưng lại giàu về nghĩa tình.
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Họ đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi với người cán bộ kháng chiến. Âm hưởng trữ tình tạo khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình yêu thương đồng chí, đồng bào, tình yêu thiên nhiên, đất nước. Họ sẵn sàng hi sinh cho tổ quốc, đồng bào, che chở cho những người chiến sĩ cách mạng.
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây……
…..Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước đi nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Những câu thơ thể hiện tinh thần của khối đại đoàn kết toàn dân, sự hoà quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên “Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây” tất cả tạo thành hình ảnh một đất nước đứng lên tiêu diệt kẻ thù. Những hình ảnh không gian rộng lớn, những từ láy (rầm rập, điệp điệp, trùng trùng), biện pháp so sánh “như là đất rung”, cường điệu “bước chân nát đá”…diễn tả được khí thế hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp: không khí sôi động với nhiều lực lượng tham gia, những hoạt động tấp nập…Âm hưởng hùng ca, mang tính sử thi của đoạn thơ thể hiện được sức mạnh của cả một dân tộc đứng lên chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Dân tộc ấy vượt qua bao khó khăn, thử thách, hi sinh để đem về những kì tích: “Tin vui thắng trận trăm miền”
Việt Bắc là quê hương của cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước. Việt Bắc là chiến khu kiên cường, nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi khai sinh những địa danh mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc. Bài thơ khẳng định niềm tin yêu của cả nước với Việt Bắc bằng những vần thơ mộc mạc, giản dị mà thắm thiết nghĩa tình.
THAM KHẢO THÊM: