Hiện nay pháp luật có quy định cụ thể về các trường hợp phải cưỡng chế phá dỡ nhà ở và thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế phá dỡ nhà ở tại luật nhà ở 2014. Theo đó các chủ sở hữu phải tuân thủ quy định của pháp luật nếu thuộc các trường hợp mà pháp luật yêu cầu phá dỡ nhà ở.
Mục lục bài viết
1. Các trường hợp phải cưỡng chế phá dỡ nhà ở:
Trong trường hợp nhà ở đã bị hư hỏng nặng có yêu cầu phải phá dỡ nhưng chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp không thục hiện việc phá dỡ thì sẽ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế yêu cầu phá dỡ nhà ở.
Tại Điều 92 Luật nhà ở năm 2014 quy định về việc cưỡng chế phá dỡ nhà ở.
Theo đó, trường hợp nhà ở phải phá dỡ theo quy định tại Điều 92 của Luật nhà ở năm 2014 mà chủ sở hữu nhà ở, chủ đầu tư công trình hoặc người đang quản lý, sử dụng không tự nguyện thực hiện việc phá dỡ nhà ở thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 95 Luật nhà ở năm 2014 ban hành quyết định cưỡng chế phá dỡ nhà ở.
Kết luận: Như trên quy định chúng tôi đã đưa ra như trên nếu thuộc các trường hợp cưỡng chế phá dỡ nhà ở thì chủ sở hữu nhà ở, chủ đầu tư công trình phải tuân thủ theo quy định này bởi vì khi nhà nước đã ra quyết định cưỡng chế phá dỡ nhà ở tức là nhà ở đó có thể là những nhà bị hư hỏng nặng… không đảm bảo điều kiện về chất lượng và án toàn nên quyết định cưỡng chế phá dỡ nhà ở đó là hoàn toàn hợp lý.
Theo quy định tại Điều 92 Luật nhà ở năm 2014 quy định về các trường hợp nhà ở phải phá dỡ, gồm có các trường hợp sau:
Thứ nhất, nhà ở bị hư hỏng nặng, có nguy cơ sập đổ, không bảo đảm an toàn cho người sử dụng đã có kết luận kiểm định chất lượng của cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh nơi có nhà ở hoặc trong tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai.
Nhận thấy nhà ở có nguy cơ bị đổ, sập, không an toàn cho người sử dụng hoặc việc sử dụng có thể đe dọa trực tiếp đến cuộc sống của người sử dụng thì cần phải được phá dỡ để cải tạo lại hoặc xây mới để đảm bảo quyền lợi cho người sử dụng.
Nếu trong trường hợp nhà ở đã được kết luận kiểm định chất lượng của cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh nơi có nhà ở hoặc trong tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai thì nhà ở cần phải được cải tạo nếu hư hỏng nhẹ, nếu ảnh hưởng trực tiếp đến người sử dụng thì cần phải phá dỡ để xây dựng mới để đối phó với thiên tai.
Thứ hai, nhà ở thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 110 của Luật nhà ở năm 2014 là nhà chung cư bị hư hỏng mà chưa thuộc diện bị phá dỡ nhưng nằm trong khu vực phải thực hiện cải tạo, xây dựng đồng bộ với khu nhà ở thuộc diện bị phá dỡ.
Thứ ba, nhà ở thuộc diện phải giải tỏa để thu hồi đất theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thứ tư, nhà ở xây dựng trong khu vực cấm xây dựng hoặc xây dựng trên đất không phải là đất ở theo quy hoạch đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Thứ năm, nhà ở thuộc diện phải phá dỡ theo quy định của pháp luật về xây dựng.
2. Thẩm quyền ban hành quyết định cưỡng chế phá dỡ nhà ở:
Cưỡng chế được hiểu đó là một biện pháp bắt buộc bằng bạo lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với những cá nhân hoặc tổ chức nhất định trong những trường hợp pháp luật quy định, đối với cưỡng chế phá dỡ nhà ở cũng vậy, mọi hành vi chống đối phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và cơ quan có thẩm quyền tiến hành cưỡng chế phá dỡ nhà ở cần thực hiện đúng trình tự thủ tục và quy định pháp luật đề ra. Thẩm quyền ban hành quyết định cưỡng chế phá dỡ nhà ở được quy định như sau:
Thứ nhất, chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định cưỡng chế đối với trường hợp phá dỡ nhà ở để thu hồi đất quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật nhà ở năm 2014, phá dỡ nhà ở riêng lẻ quy định tại các khoản 1, 4 và 5 Điều 92 của Luật nhà ở năm 2014.
Thứ hai, chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quyết định cưỡng chế đối với trường hợp phá dỡ nhà chung cư quy định tại các khoản 1, 2, 4 và 5 Điều 92 của Luật nhà ở năm 2014.
Thứ ba, Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm tổ chức cưỡng chế phá dỡ nhà ở theo quyết định cưỡng chế phá dỡ nhà ở quy định tại khoản 2 Điều 95 Luật nhà ở năm 2014.
3. Kinh phí cưỡng chế phá dỡ nhà ở được quy định như sau:
Thứ nhất, chủ sở hữu nhà ở hoặc người đang quản lý, sử dụng nhà ở hoặc chủ đầu tư công trình phải chịu chi phí cưỡng chế phá dỡ và các chi phí có liên quan đến việc phá dỡ.
Thứ hai, trường hợp chủ sở hữu nhà ở, người đang quản lý, sử dụng nhà ở, chủ đầu tư công trình không chi trả thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản để bảo đảm kinh phí cho việc phá dỡ.
Ngoài ra có thể căn cứ tại điều 76
Ví dụ như đối với một số trường hợp địa phương nào đó có một số gia đình cố ý xây dựng nhà cửa trên đất quy hoạch đô thị, Ủy ban nhân dân cấp xã đã tiến hành tuyên truyền, vận động và lập biên bản đình chỉ, trong trường hợp này, công trình không do Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc Sở Xây dựng cấp phép xây dựng thì thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã. Nếu trong phạm vi mình quản lý thì Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền cưỡng chế tháo dỡ theo quy định của pháp luật, đối với các trường hợp không trong phạm vi quản lý mà thẩm quyền tháo dỡ thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện thì Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định đình chỉ thi công xây dựng, Theo đó sẽ có văn bản yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp huyện ra quyết định cưỡng chế tháo dỡ công trình vi phạm theo quy định của pháp luật,
Theo dó có thể đưa ra nhận định từ quy định trên thì ủy ban nhân dân xã có thẩm quyền cưỡng chế những công trình xây dựng vi phạm. Trường hợp này, ủy ban nhân dân cấp xã có đủ thẩm quyền để phạt hành chính và có thể buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép. Theo quy định
Kết luận: Như những điều đã phân tích như trên thì về thẩm quyền ban hành quyết định cưỡng chế phá dỡ nhà ở đó là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, tùy từng trường hợp cụ thể mà thẩm quyền theo quy định sẽ khác nhau và các cấp sẽ có trách nhiệm thực hiện đúng quyền hạn của mình để có thể xử lý các trường hợp cưỡng chế phá dỡ nhà ở khi họ vi phạm pháp luật, xây dựng trái phép hay để đảm bảo an toàn nhất cho dân cư.
Cơ sở pháp lý:
Luật nhà ở 2014