Cá nhân khi đã xác lập quan hệ vợ chồng thì những tài sản phát sinh trong thời điểm này nếu không có sự thỏa thuận hoặc những cứ chứng minh là tài sản riêng sẽ được coi là tài sản chung. Vậy các giao dịch nào phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng?
Mục lục bài viết
1. Các giao dịch nào phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng?
Hôn nhân là thuật ngữ được sử dụng để thể hiện mối quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn. Dựa trên nguyên tắc cơ bản trong việc định đoạt vấn đề liên quan đến vấn đề chung phát sinh trong đời sống hôn nhân thì cần dựa trên các nguyên tắc về tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Trong một số vấn đề thì cần sự chấp thuận của cả hai thì mới có thể được xác lập giao dịch hợp pháp, cụ thể trường hợp sau:
Thứ nhất, Đối với những giao dịch liên quan đến một số tài sản chung của vợ chồng:
Theo ghi nhận tại Điều 35 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 thì có quy định các giao dịch về việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng sẽ do vợ chồng thỏa thuận ( có nghĩa là cả hai đều phải đồng ý giải quyết vấn đề nhất định);
Nếu một trong hai người là vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì phải chứng minh được điều này thì sẽ được coi là có sự đồng ý của bên kia, không cần có sự thỏa thuận của vợ chồng; (Có thể thấy, nhu cầu thiết yếu là nhu cầu sinh hoạt thông thường phục vụ cho nhu cầu ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình);
– Theo quy định thì tài sản chung của vợ chồng được xác định như sau:
+ Nếu nguồn tài sản được hình thành do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh trong thời kỳ hôn nhân;
+ Cá nhân xác định hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân: Trường hợp hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là sản vật tự nhiên mà vợ, chồng có được từ tài sản riêng của mình; Lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là khoản lợi mà vợ, chồng thu được từ việc khai thác tài sản riêng của mình.
– Việc xác định nguồn thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân có thể thông qua các khoản sau:
+ Đầu tiên cần nói đến các khoản tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp…
+ Tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước;
+ Cá nhân chứng minh được nguồn nhập hợp pháp khác theo quy định của pháp luật;
– Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung thì cũng không được tự ý định đoạt nêu một trong hai bên chưa đồng ý;
– Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng;
Trong trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng.
Lưu ý: Việc định đoạt tài sản chung cần được thỏa thuận và ghi nhận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau đây:
+ Đối với tài sản là bất động sản gồm: Đất đai; nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai; tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng,…
+ Còn trong trường hợp là động sản mà theo quy định bắt buộc phải đăng ký quyền sở hữu, như: Tàu biển, phương tiện giao thông đường thủy nội địa, phương tiện giao thông cơ giới, tàu cá,…
Thứ hai, Liên quan đến các giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng:
Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng có thể là tài sản chung của vợ chồng, không phải tài sản riêng của vợ/chồng như nhà thuê… thì phải tuân thủ nguyên tắc trong định đoạt tài sản chung nên cần phải có sự đồng ý của vợ và chồng. Trừ trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng thì chủ sở hữu có quyền xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản đó, không cần sự đồng ý của bên còn lại nhưng phải bảo đảm chỗ ở cho vợ/chồng.
Thứ ba: Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của vợ/ chồng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản này là nguồn sống duy nhất của gia đình:
Vấn đề này hiện được quy định tại khoản 4 Điều 44 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 thì trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ.
Với nội dung đã phân tích thì tồn tại 3 trường hợp giao dịch liên quan đến tài sản mà vợ/chồng bắt buộc phải có sự thống nhất, thỏa thuận của cả hai trước khi định đoạt tài sản, tránh xảy ra tranh chấp mà gây bất lợi cho quyền lợi của cá nhân.
2. Chồng tự ý bán nhà là nhà duy nhất của vợ chồng thì xử lý ra sao?
Tính từ thời điểm vợ chồng đăng ký kết hôn thì tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân sẽ được xem là tài sản chung vợ chồng được hình thành, mọi quyết định liên quan đến tài sản chung đều phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng. Quy định này ràng buộc các bên phải thực hiện theo nguyên tắc khi giải quyết tài sản chung vợ chồng được đã được hướng dẫn tại khoản 1 Điều 29 Luật Hôn nhân và Gia đình, cụ thể: Cá nhân được công nhận là vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không có sự phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập;
Vì đây là tài sản chung vợ chồng nên quyền định đoạt sẽ do cả hai người cùng thoả thuận (khoản 1 Điều 35 Luật Hôn nhân và Gia đình). Nếu không có thoả thuận thì tài sản chung sẽ phải thực hiện theo nguyên tắc là cả hai vợ chồng cùng quyết định và định đoạt, pháp luật không công nhận các giao dịch của một trong hai bên tự ý bán đất mà không có sự đồng ý của người còn lại.
Pháp luật chưa có quy định pháp luật để xử phạt vi phạm hành chính nên nếu chồng tự ý bán tài sản chung mà không có thoả thuận hoặc được sự đồng ý của vợ thì người vợ có thể kiện ra Toà để đòi lại đất bởi việc bán đất trong trường hợp này yêu cầu tuyên giao dịch này bị vô hiệu do lừa dối theo quy định tại Điều 127 Bộ luật Dân sự. Hệ quả của sự việc này là các bên sẽ trả lại cho nhau những gì đã nhận, khôi phục lại tình trạng ban đầu của tài sản.
– Thủ tục khởi kiện khi chồng tự ý bán đất được thực hiện như sau:
+ Chuẩn bị giấy tờ: Cá nhân cần soạn thảo đơn khởi kiện. Nội dung trong đơn này thì người vợ cần phải trình bày được các ý chứng minh tài sản người chồng bán là tài sản chung vợ chồng; Hành động của người chồng là tự ý thực hiện và đang vi phạm pháp luật; Đồng thời cũng có nội dung thể hiện người chồng cố ý che giấu việc đây là tài sản chung của vợ chồng và một mình chồng không thể tự ý bán tài sản này được với người mua khiến người mua thực hiện việc mua bán đất này;
+ Cần cung cấp các loại giấy tờ nhân thân của vợ, chồng như Căn cước công dân hoặc hộ chiếu còn hạn, sổ hộ khẩu, đăng ký kết hôn;
+ Những thông tin về giấy tờ về thửa đất đã bị chồng tự ý bán cũng có thể được gửi kèm theo đơn khởi kiện: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, có thể nộp thêm hợp đồng mua bán giữa chồng và bên mua;..
– Hồ sơ sau khi được chuẩn bị thì sẽ được nộp tại Toà án nơi người chồng (người bị kiện) cư trú, làm việc là cơ quan có thẩm quyền giải quyết trường hợp này ( Theo khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
Văn bản pháp luật được sử dụng:
– Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015;
– Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.