Các chế tài khi có vi phạm hợp đồng trong hoạt động mua bán hàng hóa. Biện pháp xử lý khi có vi phạm thực hiện hợp đồng thương mại.
1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng
Điều 223, Khoản 1 Luật thương mại quy định: “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu phí tổn phát sinh”. Như vậy, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng buộc bên vị phải thực hiện đúng hợp đồng cho dù để thực hiện được, bên vi phạm phải áp dụng biện pháp nào hay phải chịu phí tổn như thế nào?
Theo Điều 223, Khoản 2, chế tài này được áp dụng trong các trường hợp: giao hàng thiếu; giao hàng kém chất lượng, cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng. Trong trường hợp giao hàng thiếu, chế tài này quy định rằng bên vi phạm phải giao đủ hàng theo đúng như đã thỏa thuận trong hợp đồng, tức là phải giao đúng về số lượng, chất lượng, chủng loại, xuất xứ, mẫu mã… Đối với việc giao hàng kém chất lượng, cung cấp dịch vụ không đúng hợp đồng, bên vi phạm phải tìm cách loại trừ các khuyết tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ. Trong trường hợp này, Luật thương mại còn quy định thêm rằng bên vi phạm có thể giao hàng khác để thay thế hàng kém chất lượng hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng, tuy nhiên “không được dùng tiền hoặc hàng khác chủng loại, dịch vụ khác để thay thế, nếu không được sự chấp thuận của bên có quyền lợi bị vi phạm”
Trên thực tế, khi một bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, để bảo vệ quyền lợi cho mình, bên bị vi phạm không phải lúc nào cũng cứng nhắc đòi bên kia thực hiện đúng nghĩa vụ như giao hàng thêm (nếu giao hàng thiếu), hay tìm biện pháp khắc phục khuyết tật của hàng hóa hoặc thay thế bằng hàng hóa khác (nếu giao hàng kém chất lượng), nhất là trong trường hợp bên vi phạm gặp nhiều khó khăn và chi phí để làm được như vậy và thậm chí bên bị vi phạm cũng có thể bị thiệt hại hơn. Trong trường hợp này, tức là khi bên vi phạm không thực hiện theo các quy định nói trên, tại Điều 223, Khoản 3 và 4 của Luật thương mại cũng thể hiện sự linh hoạt khi quy định cụ thể rằng: Bên có quyền lợi bị vi phạm có quyền mua hàng hay nhận cung ứng dich vụ của người khác để thay thế theo đúng loại hàng hóa, dịch vụ ghi trong hợp đồng. Khi đó, bên vi phạm phải bù chênh lệch nếu có.
Nếu bên có quyền lợi bị vi phạm tự sửa chữa khuyết tật, thiếu sót của hàng hóa, dịch vụ thì bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý. Theo quy định này, bên vi phạm phải trả “các chi phí thực tế hợp lý”. Nói cách khác, nếu bên bị vi phạm viện cớ sửa chữa khuyết tật của hàng hóa để đòi bên kia các chi phí không liên quan đến việc sửa chữa khuyết tật đó hoặc đòi các chi phí vô lý quá cao so với thực tế thì bên vi phạm sẽ không phải trả các chi phí đó.
Như vậy, buộc thực hiện đúng hợp đồng là chế tài nhẹ nhất trong các chế tài và là tiền đề để thực hiện các chế tài khác
2. Phạt vi phạm
Đây là một chế tài rất hay được sử dụng trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hợp đồng kinh tế. Theo Điều 226, Luật thương mại: “Phạt vi phạm là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt nhất định do vi phạm hợp đồng, nếu trong hợp đồng có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định” Từ định nghĩa trên có thể thấy, phạt vi phạm chỉ được áp dụng khi trong hợp đồng có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định sẽ áp dụng loại chế tài này cho những vi phạm nhất định và không phụ thuộc vào bên bị vi phạm có thiệt hại hay không.
Để có thể đòi được tiền phạt, các bên phải dựa trên căn cứ sau: một bên đã không thực hiện hợp đồng hoặc thực hiện không đúng hợp đồng (Điều 227, Luật thương mại). Không thực hiện hợp đồng có thể là không giao hàng, không nhận hàng, không thanh toán tiền hàng… Còn thực hiện không đúng hợp đồng có thể là chậm giao hàng, giao hàng thiếu, giao hàng sai quy cách chủng loại, giao hàng kém phẩm chất…Ở đây, Luật thương mại không quy định rằng, khi áp dụng chế tài phạt vi phạm, bên có quyền lợi bị vi phạm phải có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại và mức độ thiệt hại. Nếu bên bị vi phạm chứng minh được là bên kia vi phạm và vi phạm đó thuộc diện áp dụng chế tài phạt vi phạm theo hợp đồng hoặc do pháp luật quy định thì hoàn toàn có thể yêu cầu bên vi phạm trả tiền phạt.
Về mức phạt vi phạm, Điều 228, Luật thương mại quy định: “Mức phạt đối với một vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không quá tám phần trăm giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm” Như vậy, Luật thương mại cho phép các bên trả bằng một số tiền cụ thể hoặc theo tỷ lệ phần trăm đối với việc vi phạm nghĩa vụ hợp đồng nhưng lại không quá tám phần trăm giá trị của phần hợp đồng bị vi phạm. Điều khoản này cho thấy Luật thương mại coi chế tài phạt vi phạm như một biện pháp trừng trị về mặt vật chất đối với bên vi phạm, nhưng chỉ giới hạn ở mức tối đa tám phần trăm giá trị phần hợp đồng vi phạm là nhằm tránh các bên sẽ lạm dụng điều khoản này.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
3.Bồi thường thiệt hại
Đây là một loại chế tài được áp dụng rất phổ biến khi có vi phạm
Điều 229, Khoản 1, Luật thương mại quy định: “Số tiền bồi thường thiệt hại gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp và khoản lợi đáng lẽ được hưởng mà bên có quyền lợi bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm hợp đồng gây ra. Số tiền bồi thường thiệt hại không thể cao hơn giá trị tổn thất và khoản lợi đáng lẽ được hưởng” Theo đó, số tiền bồi thường thiệt hại sẽ bao gồm hai khoản: Thứ nhất là bên vi phạm phải bồi thường là giá trị tổn thất thực tế trực tiếp. Thứ hai, bên vi phạm phải bồi thường là khoản lợi đáng lẽ được hưởng mà bên có quyền lợi bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm hợp đồng gây ra.
Mặc dù, lỗi được xác định trên cơ sở suy đoán lỗi nhưng khi áp dụng loại chế tài này, bên đòi bồi thường thiệt hại có nghĩa vụ phải chứng minh tổn thất và mức độ tổn thất (Điều 231, Luật thương mại).
Ngoài nghĩa vụ chứng minh tổn thất và mức độ tổn thất, “bên đòi bồi thường thiệt hại phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất kể cả khoản lợi đáng lẽ được hưởng do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra; nếu bên đòi bồi thường thiệt hại không áp dụng các biện pháp đó, bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu giảm bới tiền bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn chế được” (Điều 232, Luật thương mại).
4. Tạm ngừng, đình chỉ và hủy bỏ hợp đồng
Tạm ngưng thực hiện hợp đồng mua bán là hình thức chế tài, theo đó một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng mua bán. Khi hợp đồng mua bán bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn còn hiệu lực.
Đình chỉ thực hiện hợp đồng mua bán là hình thức chế tài, theo đó một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng mua bán. Khi hợp đồng mua bán bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấn dứt hiệu lực từ thời điểm một bên nhận được
Hủy bỏ hợp đồng mua bán là hình thức chế tài, theo đó một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng và làm cho hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết. Hủy bỏ hợp đồng có thể là hủy bỏ một phần hợp đồng hoặc toàn bộ hợp đồng. Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bải bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng. Khi một hợp đồng mua bán bị hủy bỏ toàn bộ, hợp đồng được coi là không có hiệu lực từ thời điểm giao kết. Các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp. Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền.