Giới thiệu chung về WTO? Khi gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết mở cửa nền kinh tế như thế nào? Lộ trình thực hiện các cam kết ra sao? Các cam kết của Việt Nam trong WTO và lộ trình thực hiện các cam kết?
Hệ thống các văn bản pháp lý quốc tế là cơ sở cho quan hệ thương mại quốc tế ngày càng phát triển, đáp ứng được lợi ích của cộng đồng các quốc gia. Chính vì sự quan trọng này đã cho ra đời cho các tổ chức thế giới như WTO, Liên minh châu Âu, Hiệp hội các nước Đông Nam Á…Năm 2007, Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế hay gọi tắt là WTO. Chính sự gia nhập này đã tạo điều kiện cho sự phát triển của Việt Nam trong nhiều năm qua. Vậy, Việt Nam đã có những cam kết nào trong WTO và lộ trình thực hiện các cam kết như thế nào?
Tư vấn về lộ trình thực hiện cam kết WTO của Việt Nam: 1900.6568
Mục lục bài viết
1. Giới thiệu chung về WTO
WTO tiền thân là Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch năm 1947. Tính đến nay thành viên gia nhập đã là 164 quốc gia. Có thể nói quan hệ thương mại quốc tế hiện nay giữa hầu hết các quốc gia thế giới đều được điều chỉnh bởi hệ thống các văn bản của WTO.
Trở thành viên của WTO chính là việc có cơ hội để phát triển nhưng cũng có cả những thách thức, nhất là các nước đang phát triển như Việt Nam. Những quyền và nghĩa vụ của thành viên này sẽ là quyền và nghĩa cụ của các thành viên khác và ngược lại. Việc gia nhập vào WTO sẽ giúp cho Việt Nam có những lợi ích và khó khăn cơ bản sau:
Thứ nhất về lợi ích: quan hệ thương mại và kinh tế giữa Việt Nam với các thành viên khác sẽ được tăng cường. Việt Nam sẽ có cơ hội xuất khẩu gạo sang các nước khác khi những hạn chế về số lượng đối với gạo và các nông sản khác được thuế hóa và thuế được giảm theo hiệp định của WTO về nông nghiệp. Bên cạnh đó là được hưởng cac ưu đãi theo quy định của các hiệp định.
Thứ hai về khó khăn: Việc tuân thủ các cam kết theo quy định của WTO sẽ là những khó khăn rất lớn cho Việt Nam trong bối cảnh xuất pháp triển kinh tế của nước ta quá kém.
Nhìn chung việc tham gia WTO đã tạo ra những cơ hội phát triển, góp phần giúp nước ta có vị thế trên thị trường.
2. Các cam kết của Việt Nam trong WTO và lộ trình thực hiện các cam kết
Thứ nhất, cam kết đa phương
Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp định và các quy định mang tính ràng buộc của WTO từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, do là nước đang phát triển ở trình độ thấp, lại đang trong quá trình chuyển đổi nên Việt Nam đã yêu cầu và WTO đã chấp nhận hưởng một thời gian chuyển đổi để thực hiện một số cam kết có liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), trợ cấp cho phi nông nghiệp, quyền kinh doanh,… Cam kết chính thức như sau:
+ Kinh tế phi thị trường: Việt Nam chấp nhận bị coi là nền kinh tế phi thị trường trong 12 năm ( không muộn hơn 31/12/2018).
+ Dệt may: các thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch dệt may đối với Việt Nam khi vào WTO. Ngoài ra thành viên WTO cũng sẽ không được áp dụng tự vệ đặc biệt đối với hàng dệt may của Việt Nam.
+ Trợ cấp phi nông nghiệp: Ta đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo quy định WTO như trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa.
+ Trợ cấp nông nghiệp: Ta cam kết không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Đối với loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt giảm nhìn chung ta duy trì được ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức này, ta còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm.Có thể nói, trong nhiều năm tới, ngân sách của nước ta cũng chưa đủ sức để hỗ trợ cho nông nghiệp ở mức này.
+ Quyền kinh doanh (quyền xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa): Tuân thủ quy định WTO, ta đồng ý cho doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được quyền xuất nhập khẩu hàng hóa như người Việt Nam kể từ khi gia nhập, trừ đối với các mặt hàng thuộc danh mục thương mại nhà nước như: xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo chí và một số mặt hàng nhạy cảm khác mà ta chỉ cho phép sau một thời gian chuyển đổi như gạo và dược phẩm.
+ Ta đồng ý cho phép doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam được đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Quyền xuất khẩu chỉ là quyền đứng tên trên tờ khai hải quan để làm thủ tục xuất nhập khẩu.
+ Trong mọi trường hợp, doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài sẽ không được tự động tham gia vào hệ thống phân phối trong nước. Các cam kết về quyền kinh doanh sẽ không ảnh hưởng đến quyền của ta trong việc đưa ra các quy định để quản lý dịch vụ phân phối, đặc biệt đối với sản phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo – tạp chí…
+ Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia: Các thành viên WTO đồng ý cho ta thời gian chuyển đổi không quá 3 năm để điều chỉnh lại thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia cho phù hợp với quy định WTO. Hướng sửa đổi là đối với rượu trên 20 độ cồn ta hoặc sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối hoặc một mức thuế phần trăm. Đối với bia, ta sẽ chỉ áp dụng một mức thuế phần trăm.
+ Doanh nghiệp Nhà nước / doanh nghiệp thương mại Nhà nước: Cam kết của ta trong lĩnh vực này là Nhà nước sẽ không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động doanh nghiệp Nhà nước
+ Tỷ lệ cổ phần để thông qua quyết định tại doanh nghiệp: Điều 52 và 104 của
+ Một số biện pháp hạn chế nhập khẩu: Ta đồng ý cho nhập khẩu xe máy phân phối lớn không muộn hơn ngày 31/5/2007. Với thuốc lá điếu và xì gà, ta đồng ý bỏ biện pháp cấm nhập khẩu từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên sẽ chỉ có một doanh nghiệp Nhà nước được quyền nhập khẩu toàn bộ thuốc lá điếu và xì gà. Mức thuế nhập khẩu mà ta đàm phán được cho hai mặt hàng này là rất cao. Với ô tô cũ ta cho phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng không quá 5 năm.
+ Minh bạch hóa: Ta cam kết ngay từ khi gia nhập sẽ công bố dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ quốc hội và Chính phủ ban hành để lấy ý kiến nhân dân. Ta cũng cam kết sẽ đăng công khai các văn bản pháp luật trên.
+ Một số nội dung khác: Về thuế xuất khẩu ta chỉ cam kết sẽ giảm thuế xuất khẩu đối với phế liệu kim loại đen và màu theo lộ trình, không cam kết về thuế xuất khẩu của các sản phẩm khác.
Thứ hai, cam kết về thuế nhập khẩu:
+ Mức cam kết chung: Ta đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trung bình trong 5-7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong 5-7 năm. Với hàng công nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6% thực hiện chủ yếu trong vòng 5-7 năm (xin tham khảo Biểu 1 kèm theo báo cáo).
+ Mức cam kết cụ thể: Có khoảng hơn 1/3 số dòng thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô – xe máy… vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định.
Ta cũng cam kết cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do theo ngành của WTO giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp, loại bỏ các hạn chế định lượng và xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu đối với hàng động sản cũng như rất nhiều khoản trợ cấp trong nước khác.
Thứ ba, cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ:
- Cam kết chung cho các ngành dịch vụ: Về cơ bản như BTA. Trước hết, công ty nước ngoài không được hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức chi nhánh, trừ phi điều đó được ta cho phép trong từng ngành cụ thể mà những ngành như thế là không nhiều. Ngoài ra, công ty nước ngoài tuy được phép đưa cán bộ quản lý vào làm việc tại Việt Nam nhưng ít nhất 20% cán bộ quản lý của công ty phải là người Việt Nam.
Cuối cùng, ta cho phép tổ chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam nhưng tỷ lệ phải phù hợp với mức mở cửa thị trường ngành đó. Riêng ngân hàng ta chỉ cho phép ngân hàng nước ngoài mua tối đa 30% cổ phần.
- Dịch vụ khai thác hỗ trợ dầu khí: Ta đồng ý cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập để đáp ứng các dịch vụ hỗ trợ khai thác dầu khí.
Tất cả các công ty vào Việt Nam cung ứng dịch vụ hỗ trợ dầu khí đều phải đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (hiện nay ta không có chế độ đăng ký này).
- Dịch vụ viễn thông: Ta có thêm một số nhân nhượng so với BTA nhưng ở mức độ hợp lý, phù hợp với chiến lược phát triển của ta.
Như vậy, với dịch vụ có gắn với hạ tầng mạng, ta vẫn giữ mức cam kết như BTA, một yếu tố quan trọng góp phần bảo đảm an ninh quốc phòng.
– Dịch vụ phân phối: về cơ bản giữ được như BTA, tức là khá chặt so với các nước mới gia nhập. Trước hết, về thời điểm cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là như BTA vào 1/1/2009. Thứ hai, tương tự như BTA, ta không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường và kim loại quý cho nước ngoài. Nhiều sản phẩm nhạy cảm như sắt thép, xi măng, phân bón… ta chỉ mở cửa thị trường sau 3 năm.
– Dịch vụ bảo hiểm: về tổng thể, mức độ cam kết ngang BTA, tuy nhiên, ta đồng ý cho Mỹ thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm kể từ ngày gia nhập.
– Dịch vụ ngân hàng: Ta đồng ý cho thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài không muộn hơn ngày 1/4/2007.
– Dịch vụ chứng khoán: Ta cho phép thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài và chi nhánh sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO
– Các cam kết khác: Với các ngành còn lại như du lịch, giáo dục, pháp lý, kế toán, xây dựng, vận tải…, mức độ cam kết về cơ bản không khác xa so với BTA. Ngoài ra không mở cửa dịch vụ in ấn- xuất bản.
Trên đây là nội dung trình bày của Luật Dương Gia về việc Việt Nam đã có những cam kết gì trong WTO và lộ trình thực hiện các cam kết đó. Trường hợp quý khách hàng có thắc mắc về vấn đề nêu trên xin vui lòng liên hệ để được giải đáp cụ thể.