Chế độ thử thách của án treo có ý nghĩa quan trọng trong việc đấu tranh và phòng chống tội phạm, khuyến khích người bị kết án lao động cải tạo trở lại là công dân có ích trong một thời hạn thử thách dưới sự giám sát của các cơ quan chức năng và giúp đỡ của cộng đồng.
Mục lục bài viết
1. Buộc phải chịu thử thách là gì?
Buộc phải chịu thử thách theo pháp luật hình sự được hiểu là biện pháp cưỡng chế buộc người phạm tội phải chấp hành nghĩa vụ học tập, lao động dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, và chính quyền cơ sở được tòa án giao trách nhiệm. Buộc phải chịu thử thách là biện pháp được áp dụng đối với người phạm tội là người chưa thành niên để thay thế cho hình phạt và với người bị xử phạt tù có thời hạn nhưng cho hưởng án treo.
Tiếng Anh của cụm động từ buộc phải chịu thử thách tạm dịch là “Forced to be challenged”.
Forced to be challenged means forcing offenders to comply with probation according to the law.
2. Chế độ thử thách của án treo trong Luật hình sự Việt Nam:
Chế độ thử thách của án treo về cơ bản được hiểu là người bị án treo sẽ phải chịu một thời gian thử thách nhất định từ một năm đến năm năm và bao giờ thời gian thử thách cũng phải lớn hơn mức hình phạt tù. Trong thời gian thử thách người bị án treo phải chịu sự giám sát giáo dục của cơ quan tổ chức được Tòa án giao trách nhiệm giám sát, giáo dục. Trong thời gian thử thách nếu người bị án treo phạm tội mới thì biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù bị xóa bỏ người bị án treo sẽ bị buộc phải chấp hành hình phạt tù trong bản án cho hưởng án treo trước đó cộng với hình phạt của bản án về tội phạm mới thực hiện. Cụ thể về chế độ này được pháp luật quy định như sau:
2.1. Điều kiện được hưởng:
Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự về án treo quy định điều kiện để cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:
– Bị xử phạt tù không quá 03 năm.
– Có nhân thân tốt. Được coi là có nhân thân tốt nếu ngoài lần phạm tội này, người phạm tội luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc. Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 06 tháng, nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.
– Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 1 Điều 51 của
– Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục. Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo. Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo
– Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
2.2. Thời gian thử thách khi hưởng án treo:
Thời gian thử thách của án treo là thời gian mà Tòa án ấn định để thử thách người bị kết án được hưởng án treo, nếu hết thời gian đó mà người bị kết án không phạm tội mới thì hình phạt tù mà Tòa án quyết định đối với người bị kết án sẽ không phải thi hành. Ngược lại, nếu trong thời gian đó người bị kết án lại phạm tội mới thì người bị kết án, ngoài việc phải chấp hành hình phạt đối với tội mới phạm, còn phải chấp hành hình phạt tù mà Tòa án đã cho họ hưởng án treo.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 60 Bộ luật hình sự, thì thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo là từ một năm đến năm năm. Không được dưới một năm và không được quá năm năm, đặc biệt không được miễn thời gian thử thách. Nếu theo quy định này, thì người bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm, Tòa án có thể ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm mà không bị ràng buộc bởi tỷ lệ bao nhiêu tháng, bao nhiêu năm tù thì bị thử thách bao nhiêu năm, mà có thể người phạm tội chỉ bị xử phạt 3 tháng tù nhưng có thể bị thử thách năm năm, ngược lại người phạm tội bị xử phạt 3 năm tù nhưng chỉ phải thử thách một năm. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử, thông thường các Tòa án ấn định thời gian thử thách gấp đôi thời gian của hình phạt tù.
2.3. Trường hợp được rút ngắn thời gian thử thách:
Người bị án treo có thể được rút ngắn thời hạn thử thách là một điểm mới được quy định trong Luật Thi hành án hình sự năm 2019. Luật cũ chỉ nêu thủ tục rút ngắn thời gian thử thách của người được hưởng án treo. Người được hưởng án treo được đề nghị rút ngắn thời gian thử thách khi có đủ các điều kiện sau đây:
– Đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách;
– Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo đã chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, các nghĩa vụ theo quy định; tích cực học tập, lao động, sửa chữa lỗi lầm hoặc lập thành tích trong lao động, bảo vệ an ninh, trật tự được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng.
– Người được hưởng án treo chỉ được xét rút ngắn thời gian thử thách mỗi năm 01 lần, mỗi lần từ 01 tháng đến 01 năm. Trường hợp thời gian thử thách còn lại không quá 01 tháng thì có thể được rút ngắn hết thời gian thử thách còn lại. Người được hưởng án treo có thể được rút ngắn thời gian thử thách nhiều lần, nhưng phải bảo đảm thực tế đã chấp hành ba phần tư thời gian thử thách.
– Trường hợp người được hưởng án treo lập công hoặc bị bệnh hiểm nghèo và có đủ các điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều này thì Tòa án có thể rút ngắn hết thời gian thử thách còn lại. Trường hợp người được hưởng án treo đã được rút ngắn thời gian thử thách nhưng sau đó vi phạm nghĩa vụ quy định và bị Tòa án quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo thì thời gian thử thách đã được rút ngắn không được tính để trừ vào thời gian chấp hành án phạt tù.
2.4. Nghĩa vụ của người hưởng án treo trong chế độ thử thách:
Căn cứ quy định tại Điều 87 Luật Thi hành án hình sự 2019 thì người được hưởng án treo có các nghĩa vụ sau:
– Có mặt theo giấy triệu tập và cam kết việc chấp hành án theo quy định tại Khoản 1 Điều 85 của Luật này.
– Thực hiệnnghiêm chỉnh cam kết trong việc tuân thủ pháp luật, nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư trú, nơi làm việc, học tập; chấp hành đầy đủ hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp vì lý do khách quan được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận.
– Chịu sự giám sát, giáo dục của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi cư trú, nơi làm việc.
– Chấp hành quy định tại Điều 92 của Luật này.
– Phải có mặt theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu.
– Hằng tháng phải báo cáo bằng văn bản với Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục về tình hình chấp hành nghĩa vụ của mình. Trường hợp vắng mặt theo quy định tại Khoản 1 Điều 92 của Luật này thì khi hết thời hạn vắng mặt, người được hưởng án treo phải báo cáo về tình hình chấp hành nghĩa vụ của mình.”
3. Trách nhiệm giám sát, giáo dục đối với người được hưởng án treo trong chế độ thử thách:
Trách nhiệm giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức và gia đình đối với người được hưởng án treo được quy định cụ thể là:
– Cơ quan, tổ chức có liên quan có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội trong việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo.
– Gia đình người được hưởng án treo có trách nhiệm phối hợp trong việc giám sát, giáo dục và thông báo kết quả chấp hành án của người được hưởng án treo cho Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục khi có yêu cầu; phải có mặt tại cuộc họp kiểm điểm người được hưởng án treo theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục.
* Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
–
– Luật Tố tụng hình sự 2015;
– Luật thi hành án hình sự năm 2019;
– Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự về án treo.