Thơ trào phúng là những bài thơ sử dụng ngôn ngữ hài hước, châm biếm, chế giễu để phản ánh những tình trạng xã hội bất công, những hiện tượng đạo đức suy đồi, những hành vi lợi dụng quyền lực của quan lại hay những mâu thuẫn trong cuộc sống. Chất thơ này được sử dụng khá rõ nét trong Tự trào của Trần Tế Xương. Dưới đây là Bố cục, tóm tắt nội dung bài thơ Tự trào của Trần Tế Xương.
Mục lục bài viết
1. Bố cục bài thơ Tự trào của Trần Tế Xương:
Bài thơ này gồm có hai phần tiêu biểu
– Phần đầu (sáu dòng thơ đầu)
Giới thiệu bản thân
Bức chân dung tự họa của tác giả thể hiện tài năng văn chương của tác giả nhưng lại tự nhận mình là kẻ ngu ngốc, ngơ ngẩn, thờ ơ với cuộc sống, ỷ lại vợ con, thất nghiệp.
– Phần tiếp theo (hai dòng thơ còn lại)
Sự tự trào của tác giả, tự cười chính mình. Vẫn giữ được thái độ thanh cao, phẩm chất tốt đẹp trước hiện thực thối nát của xã hội.
2. Tóm tắt bài thơ Tự trào của Trần Tế Xương:
Bài thơ Tự trào của Trần Tế Xương là tác phẩm tự họa lại chính bức chân dung của tác giả. Tế Xương tự nhận mình là kẻ chẳng có địa vị gì, đần độn, suốt ngày ngơ ngẩn. Không chỉ vậy, ở nhà vô công rồi nghề, được vợ hầu hạ, sống bằng tiền lương của vợ, mà có lúc vênh vênh tự đắc. Bên cạnh đó, bài thơ còn là bức tự trào của Tế Xương trước cuộc đời đang có những sự chuyển biến đi xuống, quan lại thối nát, thực dân Pháp xâm lược, những kẻ tay sai, nhưng tác giả vẫn giữ được nét thanh cao của bản thân và rất lạc quan.
3. Soạn bài thơ Tự trào của Trần Tế Xương:
Câu 1: (Ngữ văn 8, tập 2, Chân Trời Sáng Tạo)
Tìm những từ ngữ, hình ảnh được tác giả sử dụng trong sáu câu thơ đầu để vẽ nên bức chân dung của chính mình. Bức chân dung này trông như thế nào? (Làm vào vở). Trả lời:
– Những từ ngữ, hình ảnh mà tác giả phác họa chân dung tự họa của chính mình trong sáu câu thơ đầu: Chẳng quan mà chẳng phải dân, Ngơ ngơ ngẩn ngẩn, vểnh vểnh râu, lên mặt.
– Bức chân dung tự họa của tác giả, cho thấy tài năng Văn chương của Trần Tế Xương, nhưng tự nhận mình là kẻ ngu ngốc, ngẩn ngơ, không ăn thua với đời, với đời chẳng là gì, ỷ lại vào vợ con và vô công rồi nghề.
Câu 2: (Ngữ văn 8, tập 2, Chân Trời Sáng Tạo)
Hai câu luận đã sử dụng những thủ pháp trào phúng nào? Tác dụng của thủ pháp này là gì?
Trả lời:
– Thủ pháp trào phúng: sử dụng ngôn ngữ tinh tế, lời lẽ kín đáo, cách nói ngược để đảo mỉa mai, cười nhạo.
– Tác dụng: thể hiện sự tinh tế trong văn phong của tác giả, nhẹ nhàng mà sâu sắc, tác giả khắc họa chính mình nhưng đằng sau đó là hình ảnh một xã hội phong kiến với nhiều khuyết điểm, bất cập, tài năng lại hạn chế, làm suy thoái tài năng của người tài. Sự bất mãn trước thời cuộc
Câu 3. (Ngữ văn 8, tập 2, Chân Trời Sáng Tạo)
Theo em, tác giả đã thể hiện tình cảm, cảm xúc gì qua hai câu thơ cuối? Điều đó giúp em hiểu biết gì về nhà thơ?
Trả lời:
– Hai câu thơ cuối bài thơ thể hiện thái độ tự trào của tác giả đối với cuộc đời, nhất là những biến động, chuyển biến của đời sống xã hội lúc bấy giờ, xã hội phong kiến thối nát và thực dân Pháp tàn ác cùng bọn quan lại, tay sai cho giặc. Mặc dù vậy, ông vẫn giữ tinh thần lạc quan và đứng về phía người dân nghèo.
Câu 4. (Ngữ văn 8, tập 2, Chân Trời Sáng Tạo)
Chủ đề của bài thơ là gì? Hãy phân tích một số lý do để xác định chủ đề.
Trả lời:
– Chủ đề của bài thơ là: Qua chân dung tự họa của nhà thơ, chúng ta có thể thấy được những thay đổi của xã hội và tinh thần lạc quan, thanh cao của nhà thơ Trần Tế Xương.
Câu 5. (Ngữ văn 8, tập 2, Chân Trời Sáng Tạo)
Qua bài thơ này tác giả muốn gửi đến người đọc thông điệp gì?
Trả lời:
– Lời nhắn của tác giả: Dù cuộc sống có thay đổi, xoay vần như thế nào hãy luôn giữ vững tinh thần lạc quan và yêu đời.
4. Bức chân dung tự họa Trần Tế Xương trong thơ tự trào:
Trong thơ tự trào của Tú Xương, nổi bật hình tượng độc đáo. Tính hình tượng độc đáo này được thể hiện qua hình ảnh của ông Tú tự trào. Qua hình ảnh này, người đọc nhận ra chân dung tự họa của Tú Xương. Khi chúng ta đến với thơ tự trào của Nguyễn Khuyến, có thể thấy nhà thơ luôn củng cố, khẳng định bản ngã của một nhà Nho bằng những chuẩn mực đạo đức Nho giáo. Trong thơ Nguyễn Quyền, hình ảnh một nhà nho cao đạo đang tự cười mình, dù là tự trào trực tiếp hay kín đáo thì luôn được thể hiện rõ. Đó là một nụ cười nhẹ nhàng mà chứa đầy cảm xúc. Khác với Nguyễn Khuyến và nhiều nhà thơ khác, sự tự trào của Trần Tế Xương cho thấy nhà thơ này không có giọng thâm trầm hay kín đáo mà ngược lại rất thẳng thắn. Ông cười nhạo chính mình, đôi khi khinh thường, đôi khi ngông ngạo. Ông là một nhà thơ có học thức cao nhưng không hợp thời. Ngoài ra, ông không phải là kiểu người an phận, thủ thường và không chấp nhận những phiền nhiễu lố bịch của xã hội. Vì thế, Tú Xương trở thành một kẻ “vô dụng” trong xã hội. Nhà thơ nhận thức rõ ràng sự dư thừa này.
Trời đất sinh ra chán vạn nghề.
Làm thầy làm thợ lại làm thức
Bác này mới thật thái vô tích.
Sáng vác ô đi tối vác ô về
(Vô tích).
Nhà thơ rơi vào bi kịch, một phần do xã hội nhiễu nhường. Làm thầy thất vọng vì “Mô phạm tiên sinh quần dính đít. Bù xu tiểu tử khố cong buồi”. Làm thợ cũng không được vì ông không thể làm được công việc tay chân, thuộc dạng “dài lưng tốn vải”. Ông ghét làm thuê cho nhà nước vì sợ làm tổn hại đến danh tiếng Nho giáo. Bởi vậy mà cách duy nhất là “Sáng vác ô đi tối vác về”. Tú Xương sống trong vòng luẩn quẩn của sự dư thừa. Ông nhận thức được sự thừa thãi ấy của mình, nhưng bất lực. Đó là lý do tại sao ông luôn phủ định chính mình. Những bức chân dung tự họa của ông được sáng tác theo phong cách “hí họa” và góp phần tạo nên thơ trào phúng bằng những hình tượng tự trào độc đáo. Râu rậm như chổi Đầu to tày giành (Phú thầy đồ dạy học 1). Trần Tế có khi thì hóm hỉnh, khi lại hiện ra với đầu to, rậm râu, mắt tháo láo, mặt thời xanh; có lúc trông ngẩn ngơ, đần độn, có khí lại lên mặt vểnh râu. Ông không phải là quan chức, cũng không phải dân.
Thực ra, nhà thơ không ngu dốt như ông tự bôi nhọ mình. Chẳng qua vì thời thế thay đổi mà ông đành bất đắc chí. Mỗi lần thi hỏng là một lần nhà thơ trượt dốc. Và tự chửi chính mình, xúc phạm chính mình và đồng thời thóa mã cả xã hội. Nhà thơ giễu cợt sự hỗn loạn trong phòng thi, giễu cợt những người thi trượt trong đó có mình, giễu cợt mình bằng những bài thơ tự mãn, tô vẽ lên những điều xấu xa, hèn hạ và đôi khi còn thể hiện sự ngông nghênh của mình đối với cuộc đời. Bằng cách này, Tú Xương đã tạo ra kiểu cười của riêng mình, một kiểu tự trào “phi ngôn chí”. Thay vì một tiếng cười phù phiếm hay một tiếng cười cho vui, hay đơn giản là một nhu cầu “tự giải thoát”, tiếng cười của ông có mục đích rõ ràng. Tiếng cười trong tự trào Tú Xương không phải là tiếng cười đơn lẻ mà là tiếng cười nhiều cung bậc, vừa nhẹ nhàng vừa uyển chuyển.
Trong những bài thơ tự trào của Tú Xương, tác giả đã sử dụng chất liệu ngôn ngữ từ cuộc sống bình dị, đời thường. Tác giả còn có vốn từ châm biếm độc đáo, đa dạng, biểu cảm, sắc sảo và dí dỏm. Những ngôn từ đời thường chảy vào thơ ông một cách tự nhiên và khiến nó luôn sống động. Vì vậy, sức mạnh nghệ thuật của thơ trào phúng Trần Tế Xương nói chung và tự trào nói riêng chính là sức mạnh của ngôn ngữ.
5. Khái quát tác giả Trần Tế Xương:
5.1. Tiểu sử:
– Trần Tế Xương (1870 – 1907), thường gọi Tú Xương
– Nơi sinh: Vĩ xuyên, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định (nay là huyện Vị Hoàn, thành phố Nam Định).
– Cuộc sống ngắn ngủi và đầy khó khăn:
+ Cuộc đời ông đầy rẫy thử thách, suốt đời thi cử, tổng cộng có tám lần. Đó là các khoa: Bình Tuất (1886); Mậu Thị (1888); Tân Mao (1891). Giáp Ngô (1894); Đinh Đậu (1897); Cần Thị (1900); Quý Mão (1903) và Bính Ngọ (1906).
+ Sau 3 lần thi trượt, ông đỗ ở lần thi thứ 4 (1894) nhưng chỉ đạt là tú tài lấy thêm.
+ Sau đó, Tú Xương đã cố gắng rất kiên trì để lấy được bằng cử nhân nhưng đều không thể.
5.2. Sự nghiệp văn học:
– Gồm hơn 100 bài thơ, chủ yếu là thơ nôm, trong đó có nhiều thể thơ và nhiều điếu văn, thơ, câu đối, v.v.. . – Một số tác phẩm: Thương vợ, Tự trào, Đất vị hoàng, …
5.3. Phong cách nghệ thuật:
– Thơ Tế Xương kết hợp hài hòa các yếu tố hiện thực, châm biếm, trữ tình và gốc rễ của nó là trữ tình.
– Thơ của ông mang giọng điệu trào phúng sâu sắc, miêu tả bọn thực dân phong kiến, bọn quan lại làm tay sai cho kẻ thù, những kẻ bán lương tâm chạy theo đồng tiền, tự lừa dối mình trong thời thế thay đổi.