Luật sư tư vấn luật dân sự miễn phí trực tuyến. Luật sư tư vấn pháp luật dân sự qua tổng đài 19001950. Dịch vụ tư vấn luật dân sự trực tuyến uy tín hàng đầu Việt Nam.
Bị tai nạn giao thông không có cơ quan công an lập biên bản có được bồi thường không? Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Tóm tắt câu hỏi:
Em có câu hỏi xin luật sư giúp em ạ! Ngày 16/12/2016 lúc khoảng hơn 19 giờ chồng em có bồng con nhỏ (18 tháng tuổi )đứng trong cung thiếu nhi cho bé xem các trò chơi, đang đứng xem thì chị kia bị ngã xe rồi chị kia dựng xe lên mà tay ga vẫn còn nên tông thẳng vào chân chồng em, chồng em chân bị gãy hết 2 xương. Lúc đó vì quá lo cho chồng và trên tay bồng con nhỏ em kg còn biết gì nghĩ đến kêu công an nên kg không có đt công an lập biên bản. Gia đình em đơn chiếc nên em nhờ chồng chị gây tai nạn cho chồng em đưa dùm đến bệnh viện, chồng em có bảo hiểm y tế 80%, chân chồng bị đóng inox nội tủy nằm viện 1 tuần Xin hỏi luật sư là trong trường hợp tai nạn mà không có công an lập biên bản thì có yêu cầu bồi thường thiệt hại được không ạ. Mà muốn được bồi thường thì phải làm những thủ tục gì để trình báo công an. Em xin cám ơn luật sư ạ!?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Theo quy định tại Điều 584 Bộ luật dân sự 2015 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
"1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này."
Đồng thời, theo quy định tại Điều 585 Bộ luật dân sự 2015 về nguyên tắc bồi thường thiệt hại:
"1. Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
4. Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
5. Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình."
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Có thể thấy, căn cứ phát sinh bồi thường thiệt hại ở đây là chỉ cần có hành vi và hành vi này trực tiếp dẫn tới hậu quả là gây tổn hại về sức khỏe thì phải bồi thường, trừ trường hợp bất khả kháng hoặc lỗi hoàn toàn do bên bị thiệt hại . Vậy, người đâm xe vào chồng bạn sẽ phải có trách nhiệm bồi thường với thiệt hại mà người đó đã gây ra, kể cả chưa có xác nhận của cơ quan công an, chồng bạn chỉ cần chứng minh được thiệt hại và người gây ra thiệt hại là người lái xe thì có thể khởi kiện yêu cầu người đó bồi thường. Chi phí được tính bồi thường sẽ được xác định theo quy định tại Điều 590 Bộ luật dân sự 2015:
"1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
d) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định."