Cho dù là hành vi cố ý gây thương tích hay là vô ý gây thương tích thì đó cũng đều là hành vi xâm phạm tới thân thể, sức khỏe của người khác. Bị người khác gây thương tích có thể đòi bồi thường không?
Mục lục bài viết
1. Bị người khác gây thương tích có thể đòi bồi thường không?
Cố ý gây thương tích là hành vi cố ý xâm phạm tới thân thể, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dưới dạng thương tích cụ thể. Hành vi cố ý gây thương tích là một hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người khác.
Vô ý gây thương tích được hiểu là một hành vi vi phạm các quy tắc thông thường ở trong cuộc sống về đảm bảo an toàn tính mạng, đảm bảo sức khỏe của người khác do quá tự tin hoặc là vì cẩu thả, đã làm cho người khác bị thương tích.
Cho dù là hành vi cố ý gây thương tích hay là vô ý gây thương tích thì đó cũng đều là hành vi xâm phạm tới thân thể, sức khỏe của người khác.
Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015 quy định căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau:
– Người nào có hành vi xâm phạm đến những vấn đề sau của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật hoặc luật khác có liên quan quy định khác:
+ Tính mạng;
+ Sức khoẻ;
+ Danh dự;
+ Nhân phẩm;
+ Uy tín;
+ Tài sản;
+ Quyền, lợi ích hợp pháp khác.
– Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp sau, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác:
+ Thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng.
+ Thiệt hại phát sinh là do hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại.
– Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại, trừ trường hợp gây thiệt hại mà không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã nêu trên.
Theo đó, người có hành vi gây thương tích cho người khác (kể cả vô ý hay cố ý) phải có trách nhiệm và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho nạn nhân (người bị đánh).
Người gây thương tích cho người khác sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu gây thương tích ở trong trường hợp phòng vệ chính đáng, nếu như vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì người gây thương tích vẫn phải bồi thường cho người bị thiệt hại.
Như vậy, người bị gây thương tích hoàn toàn có quyền đòi bồi thường thiệt hại do hành vi cố ý gây thương tích hoặc vô ý gây thương tích của người khác gây ra cho mình.
2. Những khoản bồi thường mà người bị gây thương tích yêu cầu người gây thương tích bồi thường:
Những khoản bồi thường mà người bị gây thương tích yêu cầu người gây thương tích bồi thường bao gồm:
– Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thương tích;
– Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thương tích. Nếu như thu nhập thực tế của người bị thương tích không ổn định và không thể xác định được thì sẽ áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
– Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thương tích trong thời gian điều trị. Nếu như người bị thương tích mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc bên cạnh thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thương tích;
– Thiệt hại khác do pháp luật quy định;
– Một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người bị thương tích phải gánh chịu. Mức bồi thường về khoản tiền này sẽ do các bên thoả thuận với nhau, nếu trong trường hợp các bên không thoả thuận được với nhau thì mức tối đa để bồi thường cho người bị thương tích là không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
3. Đòi bồi thường thiệt hại do người khác gây thương tích trong một số trường hợp cụ thể:
Trường hợp 1: Đòi bồi thường thiệt hại do người khác gây thương tích trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình và của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của các cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người mà đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Căn cứ Điều 594 Bộ luật Dân sự 2015 quy định người gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng không phải thực hiện bồi thường cho người bị thiệt hại. Người gây thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải có trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại. Theo đó, người bị người khác gây thương tích sẽ chỉ được đòi bồi thường người đã gây ra thương tích cho mình khi hành vi của người đã gây ra thương tích cho mình là hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, còn nếu như hành vi của người đã gây ra thương tích cho mình là hành vi phòng vệ chính đáng thì người bị người khác gây thương tích không đòi bồi thường thiệt hại được trong trường hợp này.
Trường hợp 2: Đòi bồi thường thiệt hại do người khác gây thương tích trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết
Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây ra các thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình và của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của các cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn so với thiệt hại cần ngăn ngừa. Căn cứ Điều 595 Bộ luật Dân sự 2015 quy định trường hợp thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì người gây ra thiệt hại sẽ phải bồi thường phần thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết cho người bị thiệt hại. Còn người đã gây ra tình thế cấp thiết dẫn đến thiệt hại xảy ra thì phải bồi thường cho người đã bị thiệt hại. Theo đó, trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, người bị người có hành vi gây thương tích do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết có quyền yêu cầu Người đã gây ra tình thế cấp thiết phải bồi thường cho mình và yêu cầu người đã gây ra thương tích do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết bồi thường phần thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết.
Trường hợp 3: Đòi bồi thường thiệt hại do người khác gây thương tích trong trường hợp do người dùng chất kích thích gây ra
Điều 596 Bộ luật Dân sự 2015 quy định người do uống rượu hoặc do dùng chất kích thích khác mà lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình, gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường. Khi một người cố ý dùng rượu hoặc dùng chất kích thích khác làm cho người khác lâm vào tình trạng bị mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi mà gây thiệt hại thì phải bồi thường cho chính người bị thiệt hại. Theo đó, người bị người khác gây thương tích do người dùng chất kích thích gây ra (rượu hoặc do dùng chất kích thích khác) thì có quyền yêu cầu chính người đó bồi thường cho mình và có quyền yêu cầu người đã cố ý dùng rượu hoặc chất kích thích khác làm cho người khác bị lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi mà gây thương tích cho mình phải bồi thường.
Trường hợp 4: Đòi bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi, người bị mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý
Điều 599 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:
– Người chưa đủ mười lăm tuổi trong thời gian trường học trực tiếp quản lý mà gây ra thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
– Người mất năng lực hành vi dân sự gây ra thiệt hại cho người khác trong thời gian bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý thì bệnh viện, pháp nhân khác phải thực hiện bồi thường thiệt hại xảy ra.
– Trường học, bệnh viện, pháp nhân khác quy định trên không phải bồi thường nếu chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý; trong trường hợp này thì cha, mẹ, người giám hộ của người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường.
Theo đó, nếu người chưa đủ mười lăm tuổi trong thời gian trường học trực tiếp quản lý mà mà gây thương tích thì người bị thương tích có quyền yêu cầu trường học bồi thường cho mình, còn nếu như người gây thương tích là người bị mất năng lực hành vi dân sự trong thời gian bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý thì người bị thương tích có quyền yêu cầu bệnh viện, pháp nhân trực tiếp quản lý phải bồi thường.
Những văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự 2015.