Bị người khác chiếm giữ trái phép tài sản xử lý thế nào? Hành vi cố tình chiếm giữ tài sản của người khác.
Bị người khác chiếm giữ trái phép tài sản xử lý thế nào? Hành vi cố tình chiếm giữ tài sản của người khác.
Tóm tắt câu hỏi:
Tôi hiện cư ngụ tại thành phố Bà Rịa-BRVT. Ngày 25/6/2016, tôi và một người bạn ngụ tại huyện Long Điền-BRVT có dùng bữa tại quán ăn trên địa bàn thành Phố Bà Rịa. Trong khi dùng bữa ăn có dùng vài lon bia. Khi tôi tính tiền ra về thì đi qua bàn có người quen kế bên chào hỏi. Lúc đi tôi có để lại cái bóp trên bàn, trong bóp có khoảng 2.800.000đ. Nhưng khi quay lại thì cái bóp không còn trên bàn, lúc đó người bạn của tôi cũng đã đứng lên đi về. Tôi nghĩ bạn tôi đã giữ bóp giùm nên tôi cũng dắt xe ra về. Nhưng khi dắt xe ra thì không thấy người bạn đó nữa, nên tôi cố gắng chạy theo và bị ngã xe nên không theo kịp. Sau đó tôi gọi điện thoại thì người bạn đó nói rằng đang ăn bún ở quán cách đó khoảng 5 km và cũng bảo rằng đang giữ bóp của tôi, nên tôi hỏi địa chỉ quán để đến lấy bóp, nhưng khi tới nơi thì người bạn đó bảo rằng đã về nhà trọ rồi (ở trọ tại huyện Tân Thành-BRVT) nên bảo tôi ngày mai sẽ đưa lại bóp cho tôi. Vì lúc đó cũng đã hơn 21h nên tôi về nhà. Đến ngày hôm sau tôi gọi thì anh ta bảo chiều sẽ vể để trả lại bóp cho tôi. Nhưng chiều khóa máy nên tôi không liên lạc được. Đến ngày 28/6 tôi mới liên lạc được thì lại bảo rằng do tối 26/8 dùng tiền của tôi cá độ đá banh nên không còn nữa và xin lỗi tôi và hứa sẽ trả lại cho tôi (tôi có lưu lại các tin nhắn này). Cũng trong ngày hôm đó anh ta có về TP Bà Rịa và trả lại bóp cho tôi thông qua người quen, nhưng trong bóp không còn tiền. Thời gian qua tôi có liên lạc với anh ta qua điện thoại, tin nhắn Zalo để lấy lại tiền, nhưng đến nay anh ta không trả cho tôi, tôi có nói rằng sẽ làm đơn tố giác nhưng anh ta lại thách tôi. Vì quyền lợi của mình, tôi không biết có thể nhờ pháp luật can thiệp được không, có thể áp dụng vào tội "công nhiên chiếm đoạt tài sản không". Mong văn phòng
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Tại Điều 187 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về quyền chiếm hữu tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu như sau:
“Điều 187. Quyền chiếm hữu tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu
1. Người phát hiện tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm phải thông báo hoặc trả lại ngay cho chủ sở hữu; nếu không biết ai là chủ sở hữu thì phải thông báo hoặc giao nộp cho ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc công an cơ sở gần nhất hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật.
Người phát hiện tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm được chiếm hữu tài sản đó từ thời điểm phát hiện đến thời điểm trả lại cho chủ sở hữu hoặc đến thời điểm giao nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Đối với tài sản do người khác tẩu tán nhằm che giấu hành vi vi phạm pháp luật hoặc trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ dân sự thì người phát hiện phải thông báo hoặc giao nộp ngay cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều này”.
Căn cứ vào quy định này thì đối với tài sản bị bỏ quên, bị đánh rơi thì người phát hiện tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên phải thông báo hoặc trả lại ngay cho chủ sở hữu; nếu không biết ai là chủ sở hữu thì phải thông báo hoặc giao nộp cho ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc công an cơ sở gần nhất hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật.
Người phát hiện tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, được chiếm hữu tài sản đó từ thời điểm phát hiện đến thời điểm trả lại cho chủ sở hữu hoặc đến thời điểm giao nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Tại Điều 141 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về tội chiếm giữ trái phép tài sản như sau:
“Điều 141. Tội chiếm giữ trái phép tài sản
1. Người nào cố tình không trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hoá bị giao nhầm hoặc do mình tìm được, bắt được, sau khi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có trách nhiệm yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo quy định của pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội chiếm giữ tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng trở lên hoặc cổ vật, vật có giá trị lịch sử, văn hoá có giá trị đặc biệt, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm”.
Căn cứ vào quy định này thì người nào cố tình không trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hoá bị giao nhầm hoặc do mình tìm được, bắt được, sau khi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có trách nhiệm yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo quy định của pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
Phạm tội chiếm giữ tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng trở lên hoặc cổ vật, vật có giá trị lịch sử, văn hoá có giá trị đặc biệt, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Như vậy, căn cứ vào quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 và quy định của Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định thì người phát hiện tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên phải thông báo hoặc trả lại ngay cho chủ sở hữu; nếu không biết ai là chủ sở hữu thì phải thông báo hoặc giao nộp cho ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc công an cơ sở gần nhất. Nếu như cố tình chiếm giữ tài sản trái phép thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 141 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Trong trường hợp của bạn thì người bạn này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 141 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 với khung hình phạt tù từ một năm đến năm năm.