Khi một người vắng mặt tại nơi cư trú trong một thời gian dài mà không ai rõ về tung tích của họ, thì sẽ phát sinh nhiều vấn đề cần giải quyết, liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người biệt tích. Vậy nếu bị đơn vắng mặt tại nơi cư trú, Tòa án giải quyết thế nào?
Mục lục bài viết
1. Khái niệm nơi cư trú của bị đơn:
Căn cứ theo quy định của Bộ Luật Dân sự 2015, nơi cư trú của bị đơn là nơi người đó thường xuyên cư trú, sinh hoạt. Đồng thời, nơi cư trú của bị đơn còn là nơi cá nhân đó dùng làm căn cứ để thực hiện, xác lập và chịu ràng buộc về các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay việc xác định nơi cư trú của bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong các vụ án dân sự còn khá nhiều bất cập, khó khăn. Như vậy, nơi cư trú của bị đơn có ý nghĩa quan trọng trong đời sống của cá nhân, gia đình và xã hội, cũng như có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định các quan hệ pháp lý với cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước trong nhiều trường hợp khác nhau.
2. Bị đơn vắng mặt tại nơi cư trú, Tòa án giải quyết thế nào?
Thứ nhất là, trong trường hợp người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ được ghi trong giao dịch, hợp đồng bằng văn bản :
– Trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân:
Đối với trường hợp người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ đã được ghi trong các giao dịch, hợp đồng bằng văn bản. Tuy nhiên, người bị khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan họ thay đổi nơi cư trú, nơi làm việc khác với nơi được ghi trong giao dịch, hợp đồng bằng văn bản với người khởi kiện đã ghi trước đó. Đồng thời, việc thay đổi này không thông báo cho người khởi kiện biết thì người bị khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được cho là họ cố tình che giấu địa chỉ nhằm trốn tránh các nghĩa vụ pháp lý phát sinh. Lúc này, Tòa án sẽ vẫn tiếp tục giải quyết vụ án theo các thủ tục chung của Bộ luật Tố tụng dân sự.
– Trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức:
Đối với các cơ quan, tổ chức có quốc tịch Việt Nam thì địa chỉ nơi cư trú được xác định là nơi cơ quan, tổ chức đó có trụ sở chính hoặc chi nhánh theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, đối với cơ quan, tổ chức có quốc tịch nước ngoài thì địa chỉ nơi cư trú được xác định căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do ngườ khởi kiện cung cấp. Trong trường hợp này, nếu người khởi kiện đã ghi đầy đủ các thông tin về địa chỉ của cơ quan, tổ chức bị kiện hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, cơ quan, tổ chức đó thay đổi trụ sở, chi nhánh đại diện mà không thông báo, công bố theo quy định của pháp luật thì được cho là họ cố tình che giấu địa chỉ để nhằm trốn tránh các nghĩa vụ pháp lý phát sinh. Lúc này, Tòa án vẫn sẽ ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Như vậy, trong trường hợp người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ được ghi trong giao dịch, hợp đồng bằng văn bản. Tuy nhiên, người bị khởi kiện được cho là vẫn cố tình che giấu địa chỉ nơi cư trú thì Tòa án vẫn sẽ ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật hiện hành.
Thứ hai là, trong trường hợp nguyên đơn không cung cấp được địa chỉ mới theo yêu cầu của Tòa án và Tòa án không xác định được địa chỉ mới của bị đơn:
Đối với trường hợp mà người khởi kiện không thể cung cấp được địa chỉ mới của người bị kiện, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo yêu cầu của Tòa án vì các lý do khác nhau. Lúc này, người kiện có quyền yêu cầu Tòa án thực hiện việc thu thập xác minh địa chỉ mới của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc xác định nơi cư trú của bị đơn trên thực tế còn khá nhiều bất cập, khó khăn. Thông thường, Tòa án sẽ thực hiện việc niêm yết công khai tại trụ sở Tòa án, tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của cá nhân, nơi có trụ sở hoặc trụ sở cuối cùng của cơ quan, tổ chức được cấp, tống đạt, thông báo và tại nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của cá nhân, nơi có trụ sở hoặc trụ sở cuối cùng của cơ quan, tổ chức được cấp, tống đạt, thông báo. Thời hạn niêm yết công khai là 15 ngày, kể từ ngày niêm yết. Do vậy, nếu như Tòa án đã áp dụng đầy đủ các thủ tục pháp lý để tìm kiếm nơi cư trú của bị đơn nhưng không thành thì Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật.
Tóm lại, thông qua các căn cứ đã phân tích ở trên. Đối với trường hợp bị đơn vắng mặt tại nơi cư trú thì Tòa án sẽ thường giải quyết theo 2 hướng. Hướng thứ nhất là Tòa án vẫn sẽ tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Hướng thứ hai là Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự hiện hành.
3. Cách xác định nơi cư trú của bị đơn:
Thông thường, người khởi kiện sẽ cung cấp địa chỉ nơi cư trú của bị đơn trong đơn khởi kiện. Trong trường hợp người khởi kiện cung cấp đầy đủ và chính xác địa chỉ nơi cư trú của bị đơn thì Tòa án sẽ căn cứ vào địa chỉ đó để xác định thẩm quyền giải quyết vụ án.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, người khởi kiện không cung cấp đầy đủ hoặc chưa chính xác địa chỉ nơi cư trú của bị đơn thì Tòa án sẽ thực hiện các biện pháp sau để xác định nơi cư trú của bị đơn:
– Tòa án sẽ tiến hành xác minh địa chỉ nơi cư trú của bị đơn theo quy định tại Điều 190 BLTTDS.
– Tòa án sẽ gửi thông báo cho bị đơn về việc khởi kiện và yêu cầu bị đơn trình bày ý kiến về nơi cư trú của mình.
– Tòa án sẽ gửi thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để cung cấp thông tin về nơi cư trú của bị đơn.
Nếu Tòa án không thể xác định được nơi cư trú của bị đơn thì Tòa án sẽ áp dụng quy định về nơi cư trú cuối cùng của bị đơn để xác định thẩm quyền giải quyết vụ án.
Nơi cư trú cuối cùng của bị đơn được xác định là nơi bị đơn thường xuyên sinh sống trước khi bị mất tích, bị truy nã hoặc bị tạm giam.
Trong trường hợp bị đơn là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì nơi cư trú của họ được xác định theo quy định tại Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Như vậy, cách xác định nơi cư trú của bị đơn phụ thuộc vào các trường hợp cụ thể. Tòa án sẽ căn cứ vào các quy định của pháp luật để xác định nơi cư trú của bị đơn nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án được thuận lợi, đúng quy định.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05 tháng 5 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự số
– Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
– Bộ luật Dân sự 2015.