Khi nào được phép tạm giam người chưa thành niên phạm tội? Điều kiện để áp dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa thành niên.
Tóm tắt câu hỏi:
Chào Luật sư!
Em trai tôi năm nay mới 16 tuổi và còn đang đi học, vừa rồi, em trai tôi xô xát, dẫn đến đánh nhau, đã đánh người khác bị thương 10%, và đã bị khởi tố hình sự theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự. Sau khởi tố, thì cơ quan điều tra đã ra lệnh tạm giam đối với em trai tôi là 3 tháng. Tôi muốn hỏi việc tạm giam đối với em tôi là có đúng với quy định pháp luật không? Cảm ơn Luật sư!
Luật sư tư vấn:
Khi thực hiện hành vi phạm tội theo khoản 2 Điều 104
Theo quy định tại Điều 303 Bộ luật Tố tụng hình sự
“1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
3. Cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phải thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam.”
Khoản 1 ĐIều 104
“Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Có tổ chức;
g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.”
Luật sư
Như vậy, căn cứ theo các quy định trên , thì em trai bạn phạm tội theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự 2015, có mức phạt cao nhất là 3 năm, thuộc tội phạm ít nghiêm trọng.
Mà theo khoản 2 Điều 303 Bộ luật Tố tụng hình sự, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chỉ bị tạm giam nếu có đủ căn cứ hoặc phạm tội nghiêm trọng do cố ý, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Trường hợp của em bạn mới có 16 tuổi nên không có đủ căn cứ để tạm giam với em trai của bạn. Như vậy, việc tạm giam 3 tháng đối với em trai bạn là trái với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Hỏi về việc bắt tạm giam người chưa thành niên quá thời hạn cho phép
Tóm tắt câu hỏi:
Tôi có người em trai năm nay 17 tuổi vi phạm tội trộm cắp nhưng không gây thiệt hại lớn và bị công an giam giữ tới nay là 6 tháng. Sau khi gia đình tôi đưa em tôi lên công an xã thì công an huyện có quyết định bắt tạm giam em tôi 3 tháng, nhưng thời gian giam giữ tới nay là 6 tháng mà cơ quan nhà nước chưa có thông báo gì về em tôi. Tôi xin hỏi nếu công an kí giấy bắt giam em tôi 3 tháng thì phải có giấy tạm giam thêm để gia đình tôi còn biết, vậy cơ quan công an có sai không?
Luật sư tư vấn:
Điều 303 Bộ luật Tố tụng hình sự có quy định về việc Bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội cụ thể như sau:
“1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
3. Cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phải thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam.”
Như vậy, theo quy định trên thì cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phạm tội phải thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam. Tuy nhiên, đối với việc gia hạn thêm thời hạn tạm giam thì việc thông báo đến gia đình, người đại điện hợp pháp của bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc cả đối với người đã thành niên, chưa được Bộ luật Tố tụng hình sự quy định cụ thể. Nhưng về mặt nguyên tắc mọi quyết định liên quan đến người chưa thành niên phạm tội đều phải được thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ, tạo điều kiện cho những người này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên. Gia đình bạn có thể yêu cầu cơ quan điều tra cung cấp các thông tin cần thiết về việc tạm giam, cũng như ra quyết định ra hạn tạm giam đối với em trai của bạn theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Phải bồi thường thiệt hại cho bị can do phê chuẩn quyết định tạm giam không đúng quy định
Tóm tắt câu hỏi:
Bạn tôi bị CQĐT phường khởi tố về tội cướp tài sản theo Điều 139 Bộ luật hình sự và đã bị tạm giam để điều tra. Lệnh tạm giam đã được Viện kiểm sát nhân dân phường phê chuẩn. Nhưng sau qua trình điều tra, Viện kiểm sát nhân dân phường ra quyết định huỷ bỏ lệnh tạm giam vì bạn tôi không thực hiện hành vi phạm tội. Trong quá trình bị tạm giam, bạn tôi phải chịu thiệt hại về tinh thần. Bạn tôi liệu có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi tạm giam sai quy định của CQĐT không?
Luật sư tư vấn:
Theo Khoản 1, 2 Điều 88 BLTTHS thì tạm giam sẽ được áp dụng như sau:
“1. Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
2. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
b) Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
c) Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.”
Nếu bạn không thuộc các trường hợp trên thì VKS phê chuẩn quyết định bắt tạm giam bạn là trái với quy định của pháp luật và bạn có quyền yêu cầu bồi thường.
Điều 620
– Cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của mình gây ra khi thực hiện nhiệm vụ trong quá trình tiến hành tố tụng.
– Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm yêu cầu người có thẩm quyền đã gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật, nếu người có thẩm quyền có lỗi trong khi thi hành nhiệm vụ.
Điểm 1.2 mục 1 phần I Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT- VKSNDTC-BCA-TANDTC-BTP-BQP-BTC ngày 25/3/2004 giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Toà án nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ quốc phòng, Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 thì trường hợp của bạn thuộc diện các trường hợp được bồi thường thiệt hại. Bạn có quyền làm đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Điều 10 Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH, cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại quy định như sau :
– Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã ra quyết định khởi tố bị can có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp có quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì người bị khởi tố không thực hiện hành vi phạm tội.
– Cơ quan đã ra lệnh tạm giữ, tạm giam có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp việc tạm giữ bị huỷ bỏ vì người bị tạm giữ không có hành vi vi phạm pháp luật hoặc việc tạm giam bị huỷ bỏ vì người bị tạm giam không thực hiện hành vi phạm tội ; nếu việc tạm giữ, tạm giam có phê chuẩn của Viện kiểm sát, thì Viện kiểm sát đã phê chuẩn phải bồi thường.
Như vậy, theo các quyết định nêu trên, thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong trường hợp này là Viện kiểm sát nhân dân huyện, nơi có quyết định phê chuẩn lệnh tạm giam của Trưởng công an huyện.
3. Đối tượng bị tạm giam? Có được bắt giam người chưa thành niên?
Khoản 1 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “ Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
– Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng
– Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm mà có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội”
Theo quy định trên thì đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can bị cáo. Bị can là những người đã bị khởi tố về hình sự ( khoản 1 Điều 49 BLTTHS), tức là những người đã có quyết định khởi tố bị can về một tội phạm cụ thể trong Bộ luật hình sự. Còn bị cáo là những người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử ( khoản 1 Điều 50 BLTTHS ). Tuy nhiên, không phải tất cả bị can, bị cáo đều bị áp dụng biện pháp tạm giam, mà chỉ áp dụng với họ trong hai trường hợp sau:
Trường hợp 1:
Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình, tội phạm rất nghiêm trọng là tội gây hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 15 năm tù ( khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự). Nếu bị can, bị cáo thuộc những trường hợp này, những người có thẩm quyền ra lệnh tạm giam ngay mà không cần có thêm các căn cứ khác.
Trường hợp 2:
Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tộ ấy là đến 3 năm tù. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, tạm giam chỉ áp dụng đối với những bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm. Đối với bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù từ hai năm tù trở xuống hoặc hình phạt khác không phải là hình phạt tù thì không bị áp dụng biện pháp tạm giam. Nếu cần thiết, cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp khác như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Tội phạm nghiêm trọng là tội gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 7 năm tù ( khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự). Trong trường hợp bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng, mà Bộ luật hình sự quy định, hình phạt tù trên 2 năm để tạm giam họ cần phải có thêm điều kiện thứ hai, đó là có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội.
Các căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể trốn, cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội:
+ Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể trốn:
Không được quy định trong luật. Tuy vậy, thực tiễn đấu tranh chống tội phạm đã đúc kết những căn cứ chủ yếu cần phải dựa vào đó để xem xét là: Tình trạng cư trú của bị can, bị cáo (Có nơi cư trú? Thường trú hay tạm trú? Nếu tạm trú thì dài hạn hay ngắn hạn? Có khai báo với chính quyền hay không? Nơi cư trú có ở quá xa nơi tiến hành các hoạt động tố tụng hay không?); Tình trạng nghề nghiệp (Có nghề nghiệp không? Làm việc trong cơ quan, tổ chức hay làm nghề tự do?); Tính chất hành vi đã thực hiện (cướp, trộm cắp, giết người hay lừa đảo…); Nhân thân (tiền án, tiền sự, hoàn cảnh gia đình, lịch sử bản thân…); Sự ràng buộc với gia đình, quê quán, cơ sở làm việc; Mối tương quan về lợi ích giữa việc bỏ trốn với việc chấp nhận bị xử lý trước pháp luật; Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo như liên hệ với người thân ở xa, mua vé đi xa…
Khi vận dụng các căn cứ để xét bị can, bị cáo có thể trốn cần lưu ý là không phải khi nào cũng có thể làm rõ được tất cả các nội dung trên mà tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể và phải biết căn cứ vào nội dung nào là chủ yếu. Để quyết định việc tạm giam không nhất thiết phải làm rõ tất cả các nội dung trên, có thể chỉ một nội dung cũng đã đủ để nhận định là đối tượng sẽ trốn.
+ Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử:
Được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như tiêu hủy chứng cứ, làm giả hiện trường, thông đồng với nhau về những lời khai gian dối, mua chuộc, khống chế người làm chứng, người bị hại hoặc các hình thức khác. Cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử là trường hợp “gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử” nhưng ở mức độ cao hơn mang tính đối phó lại việc tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Việc xác định bị can, bị cáo cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử phải dựa trên những căn cứ khách quan và phải xuất phát từ yêu cầu của việc điều tra, truy tố, xét xử chứ không phải sự suy đoán chủ quan tùy tiện. Từ thực tiễn cuộc đấu tranh chống tội phạm có thể rút ra những căn cứ cần xem xét để nhận định bị can, bị cáo cản trở việc tiến hành tố tụng thường là: Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện. Những bị can, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì thường tiến hành nhiều hoạt động đối phó hoạt động tố tụng; Nhân thân người phạm tội, như loại đối tượng lưu manh, côn đồ thường có hành động đe dọa, khống chế người làm chứng, người bị hại hoặc thông đồng với đồng bọn về những lời khai gian dối; Sự ràng buộc với gia đình, cơ quan, tổ chức nghề nghiệp; Tình trạng chứng minh là mức độ làm rõ về hành vi phạm tội của bị can, bị cáo, đối với những đối tượng mà hành vi của họ cơ bản đã được làm rõ thì hành vi đối phó hoạt động tố tụng sẽ hạn chế và ngược lại; Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo như tiêu hủy chứng cứ, tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có…
+ Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội:
Phải dựa vào nhiều tình tiết và xem xét đánh giá một cách tổng hợp. Những tình tiết đó thường là: Tính chất của tội phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện; Nhân thân của bị can, bị cáo; Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo như đe dọa, khống chế, mua chuộc người làm chứng, người bị hại, sử dụng thời gian bất minh, đi lại gặp gỡ bọn tội phạm.
Thể hiện tinh thần nhân đạo Xã hội chủ nghĩa. Bộ luật tố tụng hình sự quy định một số trường hợp không áp dụng biện pháp tạm giam; các trường hợp đó là: Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang thời kỳ nuôi con dưới 36 tháng tuổi; người già yếu, người bị bệnh nặng. Những trường hợp trên phải có thêm một điều kiện khác đó là có nơi cư trú rõ ràng.
Trong trường hợp không có nơi cư trú hoặc không xác định được nơi cư trú, có nhiều nơi cư trú, nơi cư trú quá xa nơi tiến hành điều tra hoặc trong trường hợp đặc biệt thì vẫn phải áp dụng biện pháp tạm giam. Những trường hợp đặc biệt nói trên theo quy định tại khoản 2, Điều 88 gồm:
– Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
– Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
– Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Với việc quy định này Bộ luật tố tụng hình sự ở nước ta thể hiện khá rõ nguyên tắc nhân đạo Xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền con người, bảo vệ quyền trẻ em. Với điều kiện sinh hoạt trong các trại giam thì không thể bảo đảm đầy đủ những nhu cầu thiết yếu của phụ nữ mang thai, phụ nữ nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh nặng. Hơn nữa trong những trường hợp này thì bị can, bị cáo đã có nơi cư trú rõ ràng, nếu họ không thuộc các trường hợp đặc biệt kể trên, các Cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác để đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan tiến hành tố tụng.
4. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong một số trường hợp đặc biệt
Bên cạnh những trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam thông thường thì thì còn một số trường hợp bắt người đặc biệt như: bắt Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phạm tội, bắt người chưa thành niên phạm tội, bắt người nước ngoài phạm tội. việc bắt các đối tượng đặc biệt này không chỉ tuân thủ những quy định trong Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự mà còn phải tuân thủ những quy định trong các văn bản khác như: Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội đối với người phạm tội là Đại biểu Quốc hội, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân đối với người phạm tội là đại biểu Hội đồng nhân dân, các quy định đối với người chưa thành niên phạm tội; quy định đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Bắt Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Hội đồng nhân dân phạm tội.
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất mọi quyền lực của nhà nước đều tập trung thống nhất vào Quốc hội, Quốc hội thực hiện quyền lực của mình thông qua Đại biểu Quốc hội là người đại điện cho ý chí nguyện vọng của nhân dân. Với vai trò quan trọng như vậy, nhằm đảm bảo hoạt động của Đại biểu Quốc hội trong nhiệm kì của mình
“Hồi đồng nhân dân là cơ quan quyền lực của nhà nước ở địa phương đại diện cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, cũng như Quốc hội Hội đồng nhân dân hoạt động thông qua Đại biểu Hội đồng nhân dân”, với vai trò này thì việc bắt người đối với đối tượng này cũng phải tuân thủ những quy định trong Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Điều 44 quy định” trong thời gian Hội đồng nhân dân họp, nếu không được sự đồng ý của chủ tọa kì họp thì không được bắt giữ đại biểu Hội đồng nhân dân..” có thể thấy, khi tiến hành bắt người đối với Đại biểu Hội đồng nhân dân phạm tội trong thời kì Hội đồng nhân dân họp thì phải có sự đồng ý của chủ tọa kì họp.
Việc áp dụng các quy định chặt chẽ như vậy đối với việc bắt người đối với Đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội đồng nhân dân phạm tội góp phần đẩm bảo sự ổn định trong hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, đảm bảo cho việc thực hiện chức năng giảm sát và thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước được tốt. Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật do đó mọi hành vi phạm tội đều bị xử lý, không phân biệt đối xử.
Bắt người chưa thành niên phạm tội là người ở độ tuổi từ 14 đến dưới 18 tuổi.
Đây là độ tuổi mà khả năng nhận thức về mặt nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị hạn chế và đôi khi còn bị tác động mạnh mẽ bởi điều kiện bên ngoài. Xuất phát từ chính sách nhân đạo của nhà nước đối với người chua thành niên phạm tội về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn. bên cạnh áp dụng những quy định chung còn phải áp dụng các điều luật riêng đối với người chưa thành niên. Khi tiến hành biện pháp ngăn chặn bắt bị can. Bị cáo dể tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội bên cạnh việc tuân thủ các quy định chung về căn cứ áp dụng các biện pháp bắt quy định tại Điều 80, Điều 88 Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự thì còn phải tuân thủ các quy định riêng về căn cứ áp dụng tại chương thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên”. Cụ thể là Điều 303 Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự. Có thể thấy, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội không chỉ căn cứ vào Điêu 80, Điều 88 Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự mà còn cắn cứ vào lứa tuổi thực hiện hành vi phạm tội mức độ lỗi cũng như tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Ngoài ra theo Khoản 3 Điều 303 Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự còn quy định thủ tục bắt người chưa thành niên phạm tội: “ cơ quan ra lệnh bắt người chưa thành niên phải thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi bắt.”.
Bắt người nước ngoài phạm tộị.
“Việc tiến hành áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam là cần thiết nhằm ngăn chặn tội phạm và tạo điều kiện thuân lợi cho hoạt động tố tụng hình sự. Xuất phát từ nguyên tắc mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh”. Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc ưu đãi miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam theo các điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam đã kí kết hoặc tham gia hoặc theo tập quán, quốc tế thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được.giải quyết bằng con đường ngoại giao. Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam không thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao, lãnh sự thì áp dụng Bộ luật hình sự để xử lý đối với mọi hành vi phạm tội của họ. việc áp dụng thủ tục bắt đối với đối tượng này được quy định như thủ tục bắt được quy định trong Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự. Bên cạnh đó, sau khi bắt những đối tượng này, các cơ quan tiến hành tố tụng cần có những thông báo cho Sở ngoại giao để theo dõi, xác định quốc tịch của đối tượng đó và thông báo cho cơ quan đại diên ngoại giao nước họ biết để phối hợp xử lý. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với đối tượng này còn dựa vào các quy định chung chung trong Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự cũng như Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự chưa được quy định cụ thể trong
5. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam đối với người chưa thành niên
Tóm tắt câu hỏi:
Cho em hỏi vấn đề sau: thẩm quyền ra lệnh tạm giam đối với người dưới 18 tuổi không chỉ là cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án mà còn một số chủ thể khác như chỉ huy quân sự, đồn biên phòng, chỉ huy máy bay tàu biển có đúng không? Cho em xin thông tin về cơ sở pháp lý? Chân thành cảm ơn.
Luật sư tư vấn:
Căn cứ Điều 303 Bộ luật tố tụng hình sự về bắt, tạm giữ, tạm giam như sau:
“1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
3. Cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phải thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam.’
Như vậy đối với người chưa đủ 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ đối với trường hợp phạm tội nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng do cơ quan có thẩm quyền ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam đưa ra quyết định.
Khoản 3 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định tạm giam như sau: “3. Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.”
Luật sư
Khoản 1 Điều 80 Bộ luật tố tụng hình sự quy định bắt bị can, bị cáo để tạm giam như sau:
“1. Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
a) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp;
b) Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp;
c) Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử;
d) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.”
Như vậy, thẩm quyền ra lệnh tạm giam gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Đối với các chủ thể khác như chỉ huy quân sự, đồn biên phòng, chỉ huy máy bay tàu biển không có quyền ra lệnh tạm giam. Đối với Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ; người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới có quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp.