Tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền hiện nay, liên tục xảy ra tình trạng "nạn nhân" báo tin già bị trộm, bị cướp tài sản đến hàng tỷ đồng gây hoang mang trong quần chúng. Vậy hành vi báo tin giả về trộm cướp tài sản sẽ bị xử phạt như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Báo tin giả về trộm cướp tài sản sẽ bị xử phạt như thế nào?
Căn cứ theo quy định tại Điều 7 của Nghị định số 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình, có quy định cụ thể về mức xử phạt đối với hành vi vi phạm quy định về an toàn trật tự công cộng. Trong đó có quy định cụ thể về mức xử phạt đối với các đối tượng có hành vi báo tin giả về trộm cướp tài sản tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cụ thể như sau:
Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với các đối tượng thực hiện một trong những hành vi vi phạm quy định của pháp luật sau đây:
– Có hành vi khiêu khích hoặc trêu ghẹo, có hành vi xúc phạm, lăng mạ người khác, có hành vi bôi nhọ danh dự nhân phẩm của người khác trái quy định của pháp luật, nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
– Tổ chức hoặc thuê người khác, có hành vi xúi giục hoặc lôi kéo dưới bất kỳ hình thức nào, có hành vi dụ dỗ hoặc kích động người khác thực hiện hoạt động cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác hoặc thực hiện hành vi xâm hại đến danh dự và nhân phẩm của người khác trái quy định của pháp luật nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
– Thông báo giả, hoặc có hành vi thông báo không đúng sự thật đến cơ quan tổ chức có thẩm quyền;
– Gọi điện đến các số điện thoại khẩn cấp như 111, 113, 114, 115 hoặc các đường dây nóng của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để quấy rối, hoặc đe dọa hoặc xúc phạm dưới bất kỳ hình thức nào;
– Có hành vi sản xuất, hành vi tàng trữ, hành vi vận chuyển đèn trời trái quy định của pháp luật;
– Có hành vi thiết kế hoạch sản xuất, có hành vi sửa chữa hoặc bảo dưỡng, có hành vi thử nghiệm các loại tàu bay và động cơ tàu bay, thử nghiệm các cánh quạt của tàu bay, và các trang thiết bị của tàu bay không người lái, đối với các phương tiện bay siêu nhẹ không có đủ hồ sơ và không có đầy đủ tài liệu hợp pháp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc đã thực hiện thủ tục đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
– Thiết kế hoạch sản xuất, sửa chữa hoặc bảo dưỡng, thử nghiệm các loại tàu bay và động cơ tàu bay, thử nghiệm đối với các loại cánh quạt tàu bay và các trang thiết bị của tàu bay không người lái, đối với các phương tiện bay siêu nhẹ không duy trì đầy đủ điều kiện về nguồn nhân lực được ghi nhận trong giấy phép do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp;
– Thiết kế hoạch sản xuất, sửa chữa hoặc bảo dưỡng, thử nghiệm các loại tàu bay và động cơ tàu bay, thử nghiệm các loại cánh quạt tàu bay và các trang thiết bị tàu bay không người lái, đối với các phương tiện bay siêu nhẹ không duy trì đầy đủ điều kiện về các trang thiết bị, không duy trì đầy đủ các phương tiện và dụng cụ, nhà xưởng và sân bãi được quy định trong giấy phép do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp;
– Thiết kế và sản xuất, sửa chữa hoặc bảo dưỡng, tiến hành các hoạt động thử nghiệm toàn bay hoặc động cơ tàu bay, thử nghiệm đối với các cánh quạt của tàu bay và các trang thiết bị của tàu bay không người lái, đối với các phương tiện bay siêu nhẹ tuy nhiên không đảm bảo tiêu chuẩn và quy chuẩn về an toàn và an ninh, cũng như không đáp ứng được đầy đủ các điều kiện về môi trường theo quy định của pháp luật.
Theo như phân tích nêu trên thì có thể nói, hành vi báo tin giả về trộm cướp tài sản tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ bị coi là hành vi vi phạm quy định của pháp luật về an ninh trật tự an toàn xã hội, hành vi này sẽ bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng theo như phân tích nêu trên. Tuy nhiên cần phải lưu ý, đây là mức xử phạt hành chính được áp dụng đối với cá nhân vi phạm. Trong trường hợp các tổ chức vi phạm có cùng hành vi thì sẽ phải chịu mức phạt tiền gấp hai lần mức phạt tiền đối với cá nhân, tức là sẽ bị phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng.
2. Thẩm quyền xử phạt hành vi báo tin giả về trộm cướp tài sản:
Pháp luật hiện nay đó có quy định cụ thể về thẩm quyền xử phạt đối với hành vi báo tin giả về trộm cướp tài sản. Căn cứ theo quy định tại Điều 68 của Nghị định số 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình, có quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nói chung và vi phạm hành chính đối với hành vi báo tin giả về trộm cướp tài sản nói riêng của chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, cụ thể như sau:
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã sẽ có thẩm quyền như sau:
– Phạt cảnh cáo;
– Phạt tiền đến 3.000.000 đồng đối với những hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình, phạt tiền đến 4.000.000 đồng đối với những hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự an toàn xã hội, phạt tiền đến 5.000.000 đồng đối với những hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ cũng như lĩnh vực phòng chống tệ nạn xã hội;
– Tịch thu tang vật và tịch thu phương tiện vi phạm hành chính khi giá trị của tang vật đó không vượt quá hai lần mức tiền phạt theo như phân tích nêu trên;
– Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả khi xét thấy cần thiết.
Theo như phân tích nêu trên thì các đối tượng có hành vi báo tin giả về trộm cướp tài sản có thể bị phạt tiền tối đa lên đến 3.000.000 đồng. Như vậy, có thể nói thẩm quyền xử phạt đối với hành vi báo tin giả về trộm cướp tài sản thuộc về chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, vì chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền xử phạt lên đến 4.000.000 đồng đối với những hành vi vi phạm quy định của pháp luật trong lĩnh vực hành chính liên quan đến trật tự an toàn xã hội theo những phân tích nêu trên.
3. Thời hiệu xử phạt hành vi báo tin giả về trộm cướp tài sản:
Theo Điều 5 của Nghị định số 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình, có quy định về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính. Theo đó thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự an toàn xã hội theo quy định của pháp luật hiện nay được xác định là 01 năm. bên cạnh đó, thời điểm được sử dụng để làm căn cứ tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự an toàn xã hội được quy định cụ thể như sau:
– Đối với các hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc, thì thời điểm được sử dụng để làm căn cứ tính thời hiệu xử phát vi phạm hành chính là kể từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm đó;
– Đối với hành vi vi phạm hành chính đang được thực hiện trên thực tế, thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính sẽ được tính kể từ thời điểm người có thẩm quyền thi hành công vụ phát hiện ra hành vi vi phạm hành chính đó.
Theo đó thì có thể nói, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính đối với các đối tượng có hành vi báo tin đã bị trộm cướp tài sản tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ được xác định là 01 năm, kể từ ngày phát hiện ra hành vi vi phạm.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Nghị định số 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình.