Với tư cách là đơn vị tư vấn luật hàng đầu Việt Nam. Công ty LUẬT DƯƠNG GIA đưa ra bản án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa để tham khảo các quyết định của Tòa án tiện lợi nhất!
Căn cứ vào chứng cứ do nguyên đơn xuất trình đã được bị đơn thừa nhận tại phiên tòa là Bảng đối chiếu công nợ ký ngày 19/5/2004 thì tính đến ngày 19/5/2004, DNTN Y còn nợ Cty X số tiền mua hàng là 73.824.830 đồng. Khoản nợ này được các bên xác nhận là chưa được thanh toán cho đến nay.
Tuy nhiên, theo sự xác nhận của các bên tại phiên tòa hôm nay thì vào ngày 12/7/2004, Cty X đã đơn phương cử người đến cửa hàng của DNTN Y thu hồi số hàng đã bán cho DN Y và tự xác định giá của lô hàng thu hồi là 34.644.750 đồng để cấn trừ vào khoản nợ nói trên mà hoàn toàn không có mặt và không có sự thỏa thuận của bà Nguyễn Thị B, chủ doanh nghiệp. Do đó, yêu cầu của nguyên đơn đòi thanh toán số tiền nợ còn lại sau khi tự cấn trừ trị giá lô hàng thu hồi (73.824.830 đ – 34.644.750 đ = 39.180.080 đ) là không đủ căn cứ để được chấp nhận. Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay, bị đơn đã chấp nhận trị giá lô hàng bị thu hồi là 53.085.000 đồng để cấn trừ vào khoản nợ đã được đối chiếu vào ngày 19/5/2204, nếu Cty X không hoàn trả được hàng bằng hiện vật cho DNTN Y. Do đó, có căn cứ để xác định số tiền mua hàng còn nợ lại hiện nay giữa 2 bên là:
73.824.830 đ – 53.085.000 đ = 20.739.830 đồng.
Về khoản chiết khấu mà bị đơn trình bày là ông Lý Quốc Long, đại diện Cty X trước đây có hứa trừ vào tiền hàng: Do bị đơn không cung cấp được chứng cứ để chứng minh đồng thời ông Lý Quốc Long cũng đã có lời khai tại Tòa phủ nhận việc thỏa thuận chiết khấu giữa 2 bên nên không có căn cứ để Tòa án chấp nhận.
Do đó, chỉ có căn cứ để chấp nhận một phần ý kiến đề nghị của bị đơn.
Bản án số : 2178/2007/KDTM-ST Ngày : 04/12/2007
V/v Tranh chấp
Ngày 04 tháng 12 năm 2007, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 398/2005/TLST-KDTM ngày 25 tháng 11 năm 2005 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2120/2007/QĐST-KDTM ngày 28 tháng 11 năm 2007 giữa các đương sự:
Nguyên đơn : CÔNG TY TNHH CÔNG NGHIỆP X
Địa chỉ : Số 8 Đường số 18, KCN Sóng Thần 2, H. Dĩ An, tỉnh Bình Dương
Đại diện : Ông Bùi Tá Dũng, GUQ số 026/UQ-TS/2007 ngày 01/12/2007
Bị đơn : Bà NGUYỄN THỊ B,
Chủ DNTN TM SX XD Y
Địa chỉ : Số 02 đường Tên Lửa, P. Bình Trị Đông B, Q. Bình Tân, TPHCM
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :
Ông LEE K
Tạm trú: 254 Lĩnh Nam, P. Trần Phú, Q. Hoàng Mai, Hà Nội
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Luật sư Lê Văn Đặng,
Đoàn luật sư TPHCM
NHẬN THẤY
– Nguyên đơn trình bày :
Công ty TNHH Công nghiệp X và Doanh nghiệp tư nhân Y có quan hệ mua bán các sản phẩm nhôm từ tháng 3 năm 2002 với phương thức bán hàng theo hóa đơn và thanh toán trong vòng một tháng.
Theo Bảng đối chiếu công nợ ký ngày 19/5/2004 thì DNTN Y còn nợ Cty X số tiền mua hàng là 73.824.830 đồng. Sau khi cấn trừ trị giá số hàng mà công ty thu hồi về ngày 12/7/2004 là 34.644.750 đồng thì DNTN Y còn nợ 39.180.080 đồng.
Do DNTN Y không chịu thanh toán số tiền hàng còn nợ nói trên nên Cty X đã nộp đơn khởi kiện đến Tòa án yêu cầu DNTN Y phải thanh toán số tiền hàng còn nợ và số tiền lãi chậm trả tính từ ngày 19/5/2004 đến ngày xét xử sơ thẩm theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định.
– Bị đơn trình bày :
Xác nhận số nợ ghi trong Bảng đối chiếu công nợ ngày 19/5/2004 nhưng không đồng ý thanh toán số tiền nợ mà nguyên đơn yêu cầu vì Cty X tự ý thu hồi hàng và áp đặt giá hàng để cấn trừ không đúng giá thị trường, gây thiệt hại cho DNTN Y, đồng thời ông Lý Quốc Long (đại diện công ty) có hứa chiết khấu cho DNTN Y nhưng công ty không trừ tiền chiết khấu vào số tiền nợ (Nếu tính giá hàng thu hồi theo giá thị trường là 53.085.000 đồng và trừ chiết khấu 4% là 20.231.144 đồng thì hiện nay DNTN Y không còn nợ Cty X).
– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (ông Lý Quốc Long) trình bày:
Xác nhận giữa nguyên đơn và bị đơn có quan hệ mua bán hàng hóa (bằng lời nói) và tại thời điểm ngày 19/5/2004, DNTN Y còn nợ Cty X số tiền mua hàng là 73.824.830 đồng. Về việc công ty thu hồi hàng về thì ông không biết (vì khi đó ông đang ở Hà Nội) nhưng việc chiết khấu thì ông khẳng định là hoàn toàn không có. Ông chỉ là người đại diện Cty X trong giao dịch với DNTN Y trước đây, ông không có quyền lợi hay nghĩa vụ gì trong vụ tranh chấp này. Oâng đề nghị Tòa án xử vắng mặt ông.
Tòa án đã triệu tập hòa giải nhưng ông Lý Quốc Long đề nghị xét xử vắng mặt đồng thời giữa nguyên đơn và bị đơn cũng không thỏa thuận được việc giải quyết vụ án. Do đó, Tòa án đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Tại phiên tòa hôm nay :
– Nguyên đơn : Yêu cầu DNTN Y phải thanh toán ngay số tiền hàng còn nợ là 39.180.080 đồng và số tiền lãi chậm trả tính từ ngày 19/5/2004 đến ngày xét xử sơ thẩm 04/12/2007 (tính chẵn 41 tháng) theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định (0,6875%/tháng x 150%) là 16.565.827 đồng, tổng cộng là 55.745.907 đồng.
– Bị đơn : Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn vì Cty X tự ý thu hồi hàng và áp đặt giá hàng để cấn trừ nợ không đúng giá thị trường, đồng thời ông Lý Quốc Long có hứa chiết khấu cho DNTN Y nhưng công ty không trừ tiền chiết khấu vào số tiền nợ
– Ý kiến của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn:
Cty X đã tự ý lấy hàng về mà không có sự thỏa thuận của DNTN Y. Mặt khác, ông Lý Quốc Long có thỏa thuận việc chiết khấu cho bên mua là DNTN Y. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét yêu cầu phản tố của bị đơn vê việc trả lại hàng và chiết khấu.
XÉT THẤY
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định :
1. Về thẩm quyền giải quyết vụ án :
Đây là tranh chấp về kinh doanh, thương mại (hợp đồng mua bán hàng hóa) giữa tổ chức kinh tế và cá nhân có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận, nguyên đơn là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bị đơn có trụ sở tại quận Bình Tân, TPHCM. Vì vậy, căn cứ vào điểm a, khoản 1 Điều 29, khoản 1 Điều 34, khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 3 Nghị quyết số 32/2004/QH11 ngày 15/6/2004 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 1 Nghị quyết số 742/2004/NQ-UBTVQH11 ngày 24/12/2004 của Uûy ban thường vụ Quốc hội về việc giao thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự quy định tại Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự cho các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, vụ tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TPHCM theo thủ tục tố tụng dân sự.
2. Về thời hiệu khởi kiện :
Ngày 19/5/2004, bị đơn ký biên bản xác nhận nợ. Ngày 28/9/2005, nguyên đơn đã nộp đơn khởi kiện đến Tòa án.
Căn cứ vào điểm a, khoản 3, Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn đã làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án trong thời hạn quy định (2 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị xâm phạm hoặc kể từ ngày bị đơn thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ), do đó, cần được chấp nhận thụ lý để giải quyết.
3. Về việc xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Do ông Lý Quốc Long đã có đơn (bằng hình thức biên bản lấy lời khai ngày 19/9/2007) đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên theo quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông Lý Quốc Long.
4. Về nội dung tranh chấp :
Xét yêu cầu của nguyên đơn đòi DNTN Y phải thanh toán ngay số tiền mua hàng còn nợ là 39.180.080 đồng và số tiền lãi chậm trả là 16.565.827 đồng:
a) Về yêu cầu thanh toán tiền hàng còn nợ:
Căn cứ vào chứng cứ do nguyên đơn xuất trình đã được bị đơn thừa nhận tại phiên tòa là Bảng đối chiếu công nợ ký ngày 19/5/2004 thì tính đến ngày 19/5/2004, DNTN Y còn nợ Cty X số tiền mua hàng là 73.824.830 đồng. Khoản nợ này được các bên xác nhận là chưa được thanh toán cho đến nay.
Tuy nhiên, theo sự xác nhận của các bên tại phiên tòa hôm nay thì vào ngày 12/7/2004, Cty X đã đơn phương cử người đến cửa hàng của DNTN Y thu hồi số hàng đã bán cho DN Y và tự xác định giá của lô hàng thu hồi là 34.644.750 đồng để cấn trừ vào khoản nợ nói trên mà hoàn toàn không có mặt và không có sự thỏa thuận của bà Nguyễn Thị B, chủ doanh nghiệp. Do đó, yêu cầu của nguyên đơn đòi thanh toán số tiền nợ còn lại sau khi tự cấn trừ trị giá lô hàng thu hồi (73.824.830 đ – 34.644.750 đ = 39.180.080 đ) là không đủ căn cứ để được chấp nhận. Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay, bị đơn đã chấp nhận trị giá lô hàng bị thu hồi là 53.085.000 đồng để cấn trừ vào khoản nợ đã được đối chiếu vào ngày 19/5/2204, nếu Cty X không hoàn trả được hàng bằng hiện vật cho DNTN Y. Do đó, có căn cứ để xác định số tiền mua hàng còn nợ lại hiện nay giữa 2 bên là:
73.824.830 đ – 53.085.000 đ = 20.739.830 đồng.
Về khoản chiết khấu mà bị đơn trình bày là ông Lý Quốc Long, đại diện Cty X trước đây có hứa trừ vào tiền hàng: Do bị đơn không cung cấp được chứng cứ để chứng minh đồng thời ông Lý Quốc Long cũng đã có lời khai tại Tòa phủ nhận việc thỏa thuận chiết khấu giữa 2 bên nên không có căn cứ để Tòa án chấp nhận.
Do đó, chỉ có căn cứ để chấp nhận một phần ý kiến đề nghị của bị đơn và chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là buộc DNTN Y phải thanh toán số tiền mua hàng còn nợ là 20.739.830 đồng.
b) Về yêu cầu trả lãi chậm trả:
Do DNTN Y chậm thanh toán tiền hàng từ ngày 20/5/2004 nên theo quy định tại Điều 233
20.739.830 đồng x 8,25% x 150% x 41/12 = 8.769.059 đồng
Về yêu cầu phản tố của bị đơn đưa ra tại phiên tòa:Do trong quá trình chuẩn bị xét xử, bị đơn không có đưa yêu cầu phản tố nên tại phiên tòa hôm nay, theo quy định tại khoản 1 Điều 218 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử không thể xem xét giải quyết yêu cầu này.
5. Về án phí:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự và các điều 15, 18 và 19 Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án :
– Bà Nguyễn Thị B phải chịu án phí sơ thẩm trên số tiền phải trả cho Cty X.
– Cty X phải chịu án phí trên số tiền yêu cầu không được Tòa án chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các điều 63, 71, 223 và 233 của Luật thương mại năm 1997;
1. Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn, buộc bà Nguyễn Thị B, Chủ Doanh nghiệp tư nhân Thương mại Sản xuất Xây dựng Y phải có trách nhiệm thanh toán cho Công ty TNHH Công nghiệp X số tiền mua hàng còn nợ theo “Bảng đối chiếu công nợ” do DNTN Y ký ngày 19/5/2004 là 20.739.830 đồng và số tiền lãi chậm trả là 8.769.059 đồng, tổng cộng là 29.508.889 đ (hai mươi chín triệu năm trăm lẻ tám ngàn tám trăm tám mươi chín đồng).
2. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn đòi số tiền mua hàng và tiền lãi vượt quá số tiền được chấp nhận nói trên (chênh lệch 26.237.018 đồng).
3. Về án phí :
– Công ty TNHH Công nghiệp X phải chịu án phí sơ thẩm là 1.311.000 đ (một triệu ba trăm mười một ngàn đồng); cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 979.502 đồng (theo Biên lai thu tiền số 000614 ngày 07 tháng 11 năm 2005 của Thi hành án dân sự TPHCM), Công ty TNHH Công nghiệp X còn phải nộp thêm331.498 đồng.
– Bà Nguyễn Thị B phải chịu án phí sơ thẩm là 1.475.000 đ (một triệu bốn trăm bảy mươi lăm ngàn đồng), nộp tại Thi hành án dân sự TPHCM.
4. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của Công ty TNHH Công nghiệp X, nếu bà Nguyễn Thị B không chịu thanh toán số tiền nói trên thì còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước qui định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
5. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.