Theo như quy định của pháp luật hình sự Việt Nam thì tử hình được biết đến là hình phạt nghiêm khắc nhất trong tất cả các hình phạt đối với người bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nhiều trường hợp được xem xét ân giảm hình phạt này. Vậy ân giảm là gì? Quy định về ân giảm đối với hình phạt tử hình.
Mục lục bài viết
1. Ân giảm là gì?
Dựa theo quy định của Luật hình sự thì ân giảm được hiểu là thẩm quyền của Chủ tịch nước ra quyết định giảm hình phạt tử hình theo bản án đã có hiệu lực pháp luật xuống tù chung thân theo quy định của pháp luật hình sự và thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước ta đối với những người phạm đội đặc biệt nghiêm trọng, việc ân giảm này đã mở ra cho những người đang phải chịu thi hành án tử hình này có khả năng ăn năn hối cải, cải tạo và giáo dục trở thành người có ích cho xã hội.
Trong luật hình sự Việt Nam thì trong thời hạn bảy ngày kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật thì người bị kết án tử hình được phép gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước. Sau đó chủ tịch nước xem xét về tội trạng của người phạm tội có thể ó khả năng ăn năn hối cải, cải tạo và giáo dục trở thành người có ích cho xã hội được hay không nếu thấy được ân giảm thì hình phạt tử hình được giảm xuống tù chung thân, nếu đơn xin ân giảm bị bác thì bản án tử hình được thi hành theo quy định của Luật Tố tụng hình sự.
2. Tử hình là gì?
Trong Luật Hình sự Việt Nam, tử hình được pháp luật quy định là loại hình phạt đặc biệt và nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt của pháp luật hình sự này, đây là một hình phạt sẽ tước đi quyền sống của người bị kết án và chỉ được áp dụng đối với người phạm tội có tính chất nguy hiểm đặc biệt cao cho xã hội. Hình phạt tử hình được quy định trong Bộ luật hình sự và do Tòa án quyết định. Tuy nhiên, đây là một hình phạt đặc biệt, hình phạt tử hình có những đặc điểm riêng của hình phạt này, đó là:
Thứ nhất, hình phạt tử hình là một loại hình phạt được quy định là nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt của pháp luật hình sự, Bởi vì nó trực tiếp tước đi quyền sống của người bị kết án tử hình, chính vì thế nó chỉ được quy định áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng như: tội giết người, tội hiếp dâm, tội cướp tài sản, tội buôn bán trái phép chất ma túy, tội tham ô tài sản được quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Thứ hai, hình phạt tử hình được tuyên đối với những tội phạm phạm tội đặc biệt nghiêm trọng với mục đích phòng ngừa tái phạm tội mới một cách triệt để từ phía người bị kết án tử hình. Hình phạt tử hình này không có quy định những mục đích cải tạo, giáo dục người bị kết án, như vậy nó chính thức thực hiện việc tước bỏ cơ hội tái hòa nhập và phục thiện của họ.
Thứ ba, hình phạt tử hình đồng thời có khả năng đạt được nhiều hiệu quả cao trong phòng ngừa chung bởi vì hình phạt này đã chính thức tước đi quyền được sông khi người phạm phải tội đặc biệt nghiêm trọng.
Thứ tư, hình phạt tử hình thuộc vào loại hình phạt có tính chất không thay đổi, vì vậy, nó tước đi khả năng khắc phục sai lầm trong hoạt động tư pháp.
Tại Điều 40
Đầu tiên, Tử hình là hình phạt đặc biệt và hình phạt tử hình này chỉ được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật hình sự Việt Nam quy định.
Hai là, Luật Hình sự quy định rất chi tiết về việc không thực hiện việc áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội vì người dưới 18 tuổi là người chưa hình thành đầy đủ về mặt tâm lý và có nhận thức đầy đủ và chính xác về hành vi của mình khi thực hiện hành vi phạm tội, phụ nữ có thai và phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi đây là quy định thể hiên sự nhân đạo đối với bào thai vì pháp luật không có quyền tước đi mạng sống của người khác ngày cả khi trong thời kì mang thai và trẻ dưới 36 tháng tuổi thì cần sự chăm sóc của mẹ để phát triển được toàn diện hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.
Ba là, Pháp luật hình sự nước ta không thực hiện việc thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây như:Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; Người đủ 75 tuổi trở lên; người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.
Bốn là, Pháp luật hình sự nước ta quy định trong trường hợp quy định Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; Người đủ 75 tuổi trở lên; người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn hoặc trường hợp người bị kết án tử hình được Chủ tịch nước xét ân giảm, thì hình phạt tử hình sẽ được chuyển thành tù chung thân.
3. Quy định về ân giảm đối với hình phạt tử hình:
Giảm mức hình phạt đã tuyên trong Bộ luật hình sự được quy định tại Điều 63 thì đối với người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp người đủ 75 tuổi trở lên; người phạm tội hình sự và bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra và xử lý tội phạm hoặc lập công lớn của Bộ luật Hình sự thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là hai mươi lăm năm và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là ba mươi năm.
Theo như quy định của pháp luật hình sự thì việc tha tù trước thời hạn có điều kiện người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc thuộc trường hợp phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; Người đủ 75 tuổi trở lên; người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn của Bộ luật Hình sự tại Điều 66 quy định rất cụ thể.
4. Tư vấn pháp luật trong trường hợp ân giảm:
Tóm tắt câu hỏi:
Người bị kết án tử hình thì có được ân giảm hay không? Mức ân giảm cụ thể là như thế nào?
Luật sư tư vấn:
Trường hợp được ân giảm đối với hình phạt tử hình được quy định cụ thể tại Điều 258 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
“1. Sau khi bản án tử hình có hiệu lực pháp luật, hồ sơ vụ án phải được gửi ngay lên Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và bản án phải được gửi ngay lên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Trong thời hạn hai tháng, kể từ ngày nhận được bản án và hồ sơ vụ án, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải quyết định kháng nghị hoặc quyết định không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước.
2. Bản án tử hình được thi hành, nếu Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Trong trường hợp bản án tử hình bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm mà Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm Toà án nhân dân tối cao quyết định không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án tử hình, thì Toà án nhân dân tối cao phải thông báo ngay cho người bị kết án biết để họ làm đơn xin ân giảm án tử hình.
Trong trường hợp người bị kết án xin ân giảm hình phạt tử hình thì bản án tử hình được thi hành sau khi Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm”
Trong trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì theo quy định tại Điều 35 của Bộ luật Hình sự, hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết: