Lạm quyền trong khi thi hành công vụ(Abuse of power while on duty) là gì? Lạm quyền trong khi thi hành công vụ tiếng Anh là gì? Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ?
Hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền của công dân, hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, ngoài ra còn xâm phạm đến những những khách thể khác được pháp luật bảo vệ. Vậy như thế nào gọi là lạm quyền trong khi thi hành công vụ thì chúng ta sẽ cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
* Cơ sở pháp lý:
–
1. Lạm quyền trong khi thi hành công vụ là gì?
Lạm quyền trong khi thi hành công vụ là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn vì mục đích vụ lợi hoặc vì động cơ cá nhân nào đó đã vượt quá quyền hạn của mình làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, của xã hội, lợi ích hợp pháp của công dân.
2. Lạm quyền trong khi thi hành công vụ tiếng Anh là gì?
Lạm quyền trong thi hành công vụ là: “Abuse of power while on duty”: means an act of a person holding a position or power for self-interest or because of a personal motive beyond his or her powers, causing damage to the interests of the state, the society, the legitimate interests of the citizen.
3. Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ?
Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ được quy định tại Điều 357
“1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà vượt quá quyền hạn của mình làm trái công vụ gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: (a) Có tổ chức; (b) Phạm tội 02 lần trở lên; (c) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
3. Phạm tội gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.
4. Phạm tội gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm.
5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.” (Điều 357 Bộ luật Hình sự).
Từ Điều luật ta có thể phân tích tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ như sau:
3.1. Cấu thành tội phạm
* Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của một tội nói chung cũng như tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ nói riêng phải đảm bảo các Điều kiện cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, đối với tội lạm dụng quyền trong khi thi hành công vụ, chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này:
– Trước hết, người phạm tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ phải là người có chức vụ, quyền hạn, nếu không có chức vụ, quyền hạn thì không thể lạm quyền được. Người không có chức vụ, quyền hạn mà tự xưng là mình có chức vụ, quyền hạn thì đó là mạo danh, giả danh có thể là lừa đảo chiếm đoạt tài sản chứ không phải là lạm quyền,
– Người không có chức vụ, quyền hạn vẫn có thể trở thành chủ thể của tội này trong trường hợp đồng phạm với vai trò không phải người thực hành (ví dụ: người xúi giục).
* Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan nhà nước, tổ chức bị lung lay, suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào Đảng và nhà nước. Mặc dù tội phạm này gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, của xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của công dân, nhưng không vì thế mà cho rằng khách thể của tội phạm này là những thiệt hại thực tế xảy ra cho nhà nước, của xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của công dân, mà những thiệt hại đó chỉ là hậu quả của hành vi phạm tội (dấu hiệu thuộc mặt khách quan).
* Mặt khách quan của tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ
– Người phạm tội có hành vi lạm quyền, lạm quyền ở đây được định nghĩa là trong khi thi hành công vụ đã thực hiện hành vi vượt quá quyền hạn của mình. Ví dụ: Giáo viên chủ nhiệm lạm dụng quyền dạy học của mình mà bắt buộc học sinh đóng tiền mua tài liệu
– Về hậu quả: Gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, hậu quả của tội lạm quyền trong khi người thi hành công vụ là dấu hiệu bắt buộc. Nếu hành vi lạm quyền chưa gây thiệt hại thì chưa cấu thành tội phạm này. Ngoài thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, thì còn có những hậu quả khác không phải lại dấu hiệu bắt buộc nhưng trong một số trường hợp nó là yếu tố định khung hình phạt như: hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
* Mặt chủ quan của tội phạm
– Người thực hiện hành vi phạm tội của mình với lỗi cố ý (bao gồm cả lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp). Có nghĩa là, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho hậu quả xảy ra.
– Về động cơ phạm tội của người phạm tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ: Vụ lợi, động cơ cá nhân khác. Điều này cũng được thể hiện ngay câu đầu tiên của Điều 357 Bộ luật Hình sự: “Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác”. Động co phạm tội là yếu tố bắt buộc phải xác định được. Nếu không xác định được động cơ của người phạm tội thì hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân chưa cấu thành tội phạm này.
3.2. Hình phạt của tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ
Về hình phạt của tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ tại Điều 357
“1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà vượt quá quyền hạn của mình làm trái công vụ gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
3. Phạm tội gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.
4. Phạm tội gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm.
5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.”
Từ đó, ta có thể thấy:
– Đối với trường hợp thuộc cấu thành cơ bản: Người phạm tội có thể bị phạt tù từ 01 năm đến 07 năm.
– Đối với trường hợp thuộc cấu thành tăng nặng: Người phạm tội có thể bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm (Khoản 2) hoặc phạt tù từ 10 năm đến 15 năm (Khoản 3) hoặc phạt tù từ 15 năm đến 20 năm (Khoản 4).
Ngoài ra, Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
3.3. Ví dụ cụ thể
Rất nhiều người luôn bị nhầm lẫn bởi lợi dụng chức vụ quyền hạn khi thi hành công vụ và lạm quyền trong khi thi hành công vụ. Để giúp phân biệt rõ hơn, sau đây chúng ta cùng so sánh hai tội này:
– Thứ nhất: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ là việc người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
– Thứ hai: Lạm quyền trong khi thi hành công vụ là việc người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà vượt quá quyền hạn của mình làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Như vậy, xét về bản chất, lạm quyền trong khi thi hành công vụ cũng là lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ nhưng có điểm khác là chủ thể đã vượt quá quyền hạn của mình hay nói cách khác, chủ thể đã thực hiện việc làm không thuộc thẩm quyền và nội dung việc làm đó là sai. Tuy nhiên, ở trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thỉ hành công vụ, nội dung việc làm của chủ thể là sai nhưng việc làm đó thuộc phạm vi chức trách của chủ thể. Trường hợp lạm quyền trong khi thi hành công vụ có tính nguy hiểm cao hơn, vì hành vi đã vượt quá phạm vi chức trách.
Sau đây là một ví dụ để các bạn có thể hiểu rõ hơn về tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ:
Chủ tịch xã A là Ông Lê Văn B cho ông Nguyễn Văn H thuê một mảnh đất công trên địa bàn xã để ông H mở cửa hàng. Số tiền thuê 1 năm là 100 triệu. Ông B không có quyền cho ông H thuê mảnh đất này.
Thứ nhất: về hành vi phạm tội: Ông B đã lạm dụng quyền làm chủ tịch xã của mình cho thuê đất công lấy tiền bỏ túi.
– Lỗi của ông B: Lỗi cố ý trực tiếp, ông B biết rõ hành vi của mình là sai trái, gây thiệt hại cho Đảng và nhà nước nhưng ông vẫn cố tình lạm quyền cho thuê.
– Động cơ của ông B: vụ lợi cá nhân
– Khách thể ông B xâm hại là sự tín nhiệm, lòng tin của nhân dân vào Đảng và nhà nước. Ông B là một trong những cán bộ làm việc trong cơ quan nhà nước ở đây là ủy ban nhân dân xã, là một chủ tịch xã đứng đầu một xã lẽ ra ông B phải là một người gương mẫu, chí công vô tư nhưng ông B lại không làm được. Trong quá trình được tín nhiệm làm công tác tại xã với chức vụ chủ tịch ông đã lạm dụng quyền của mình cắt đất công của nhà nước ra cho thuê để trục lợi cho bản thân.
– Về khách quan: ông B đã trục lợi cho bản thân mình qua hành vi cho ông H thuê đất với số tiền tròn 1 năm cho thuê là 100 triệu đồng. Thiệt hại thực tế có thể thấy là số tiền 100 triệu đồng.
– Về hình phạt: Ông B đã vi phạm Khoản 1 Điều 357 Bộ Luật Hình Sự. Theo đó, ông B có thể bị phạt tù từ 01 năm đến 07 năm.