Đất Nước của Nguyễn Đình Thi đã vẽ lên hình tượng đất nước vừa mang vẻ đẹp hiền hòa trong sắc thu, hương thu, mang cái bát ngát của quân và dân ta trong những năm dài kháng chiến. Bài viết dưới đây sẽ hướng dẫn phân tích bài thơ Đất nước của nhà thơ Nguyễn Đình Thi. Mời các bạn cùng tham khảo.
Mục lục bài viết
1. Dàn phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi:
Mở bài:
– Khái quát về nhà thơ Nguyễn Đình Thi.
– Khái quát về bài thơ đất nước.
Thân bài:
a. Phần 1
* Hình ảnh mùa thu Hà Nội trong hoài niệm của nhà thơ: (từ đầu đến… lá rơi đầy):
– Tín hiệu gợi nhắc về mùa thu Hà Nội: sáng mát trong và gió thổi mùa thu hương cốm mới, đây là những nét đặc trưng quen thuộc của mùa thu Bắc Bộ, hay chính là mùa thu Hà Nội.
– Mùa thu Hà Nội:
+ Bức tranh mùa thu chân thực, thi vị, mang đậm đặc trưng mùa thu Hà Nội nhưng thoáng nét buồn: những buổi sáng mát trong, gió thổi, hương cốm, trời chớm lạnh, hơi may xao xác, nắng lá, phố phường Hà Nội => Bức tranh mùa thu có sự hài hòa của hình khối, đường nét, màu sắc những chứa đầy tâm trạng của người ra đi “Người ra đi… lá rơi đầy”.
+ Dáng người đi buồn bã, lưu luyến nhưng cũng đầy cương quyết.
=> Mùa thu Hà Nội với vẻ đẹp mang mác nỗi buồn bởi nhân vật trữ tình phải li biệt Hà Nội để đi tìm con đường thoát vòng nô lệ đau thương, tủi nhục.
* Mùa thu cách mạng, mùa thu độc lập vui tươi, phấn chấn.
– Tiếng reo vui trước mùa thu độc lập, hạnh phúc ở thời điểm hiện tại.
– Mùa thu cách mạng tươi đẹp, sôi động: không gian nghệ thuật dịch chuyển từ những phố dài xao xác buồn bã sang không gian núi rừng tươi mới, tràn đầy sức sống với những âm thanh ngân nga, vang vọng trong không gian; trạng thái nhân vật trữ tình vui vẻ, hạnh phúc hòa vui trong sự phấn chấn của tạo vật (phấp phới, thiết tha).
=> Niềm tự hào về đất nước độc lập và mùa thu của niềm vui, của sự tự do chiến thắng.
– Nghệ thuật trong đoạn thơ: hình ảnh giàu sức gợi, câu thơ giàu tính nhạc, nghệ thuật điệp ngữ, giọng thơ phấn chấn sôi nổi, cảm xúc mãnh liệt…
=> Đoạn thơ thể hiện tình yêu tha thiết, niềm tự hào về vẻ đẹp của mùa thu quê hương và sự độc lập, tự do của đất nước, truyền thống anh hùng, bất khuất của dân tộc.
b. Phần 2
* Đất nước đau thương trong chiến tranh:
– Đất nước đau thương, chìm trong máu và nước mắt: những cánh đồng quê chảy máu, dây thép gai đâm nát trời chiều, bát cơm chan đầy nước mắt…
– Đất nước kêu gào trong nỗi căm hờn.
* Đất nước vùng lên giành lấy chiến thắng vinh quang, chói lọi:
– Vượt lên đau thương để lao động và chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược: Những đêm dài hành quân nung nấu, xiềng xích chúng bay không khóa được,…
– Hình ảnh đất nước kì vĩ, chói lọi, quật cường bừng dậy giữa hiện thực rung trời chuyển đất.
– Nghệ thuật trong đoạn thơ: hình ảnh sáng tạo đầy sức gợi hình gợi cảm, nghệ thuật đối lập, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đậm nét.
=> Bức tranh đất nước được tạo nên bằng chất liệu hiện thực, hình ảnh giàu tính sử thi, là cao trào của cảm xúc, thâu tóm được tư tưởng toàn bài.
Kết bài:
– Khái quát lại nội dung bài thơ.
2. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi hay nhất:
Nguyễn Đình Thi là một tài năng đa năng với những tác phẩm và bài viết đa dạng về văn học, âm nhạc, triết học và phê bình. Ông là một nhà thơ có đóng góp quan trọng trong văn học Việt Nam với những bài thơ sôi nổi, sâu lắng và tao nhã, gần gũi với mọi người. Trong số các tác phẩm nổi bật, bài thơ “Đất nước” được sáng tác từ năm 1948-1955 là một tác phẩm kết hợp từ hai bài thơ “Đêm mít tinh” và “Sáng mát trong như sáng năm xưa”. Bằng sự kết hợp này, Nguyễn Đình Thi đã tạo ra một thái độ trân trọng, một cái nhìn đầy đủ về hình ảnh đất nước. “Đất nước” được xem như một cuốn biên niên sử bằng thơ với những bức tranh hào hoa, oanh liệt, vinh quang và rực rỡ của dân tộc.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Đình Thi đã lấy hình ảnh mùa thu từ trong kí ức và những hình ảnh đã quen thuộc của mùa thu Hà Nội còn đọng lại trong ký ức nhà thơ:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa”
Nguyễn Đình Thi trở về mùa thu hiện tại và nhớ về mùa thu đã qua. Với hình ảnh của một mùa thu trong lành và mát mẻ, với gió thu mang theo hương cốm, ông gợi lên trong người đọc một cảm giác thân thuộc với một mùa thu đẹp đẽ trong quá khứ. Ông cho rằng vẻ đẹp của mùa thu là vĩnh cửu và không đổi thay, là nỗi nhớ và niềm hoài niệm. Chỉ với một câu thơ “gió thổi mùa thu hương cốm mới”, ông đánh thức trong lòng người đọc hình ảnh mùa thu Hà Nội với vẻ đẹp truyền thống, tao nhã, bền vững và cổ xưa. Một chút gió héo may, một chút hương cốm thơm nức. Một hình ảnh quen thuộc kéo dài từ năm này qua năm khác không đổi thay.
Câu thơ “tôi nhớ những mùa thu đã xa” giống như câu thơ bản lề, chuyển hướng, đẩy tâm sự người đọc hướng về hiện tại mùa thu Hà Nội:
“Sáng chớm, lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Vẫn là nhịp điệu chậm rãi, tràn đầy nhung nhớ trong khổ thơ sau. Nguyễn Đình Thi tái hiện hình ảnh “sáng”, nhưng mùa thu của hiện tại lại đẹp mà buồn, gợi lên nhiều sự thương nhớ. Sáng mùa thu chớm lạnh trong “trong lòng Hà Nội”, hay chính là sự lạnh lùng của những con người trước mỗi đợt thu về. Điều đó cho thấy tinh tế của nhà thơ, đồng thời khắc họa rõ ràng nỗi nhớ thương qua những câu thơ đầy xúc động và ám ảnh.
Ở đây, nhà thơ đã tạo ra một hình ảnh đặc trưng của Hà Nội là “Con phố dài” và sử dụng từ láy “xao xác” để gợi lên sự vắng vẻ và hiu quạnh của nơi đây. Hình ảnh gió xao xác cùng với con phố dài đã tạo nên một sự thu hút và sâu thẳm cho người đọc. Đột nhiên, tác giả chuyển sang hình ảnh của người ra đi. Câu thứ ba thể hiện sự kiên quyết và kiêu hãnh của tác giả với chí lớn mang trong lòng. Tuy nhiên, câu cuối cùng lại thể hiện tình cảm sâu sắc và trực tiếp của tác giả, được dàn trải đều qua cách ngắt nhịp của từng câu thơ.
Có người cho rằng hình ảnh của Hà Nội được thể hiện rõ nét trong câu thơ cuối cùng: “thềm nắng lá rơi đầy”. Câu thơ này vô cùng tinh tế và đẹp mắt, tạo nên một bức tranh thu Hà Nội thật sống động, thấm đầy ánh nắng, gợi lên sắc thái quyến rũ trong tâm hồn người ra đi. Thế nhưng, một Hà Nội đẹp như thế, quyến rũ như thế lại khiến người ta khó lòng rời bỏ, như cứ bị níu chân mãi không muốn rời đi, làm sao có thể không cảm thấy xúc động?
Đó là những hình ảnh mùa thu của quá khứ, còn mùa thu của bây giờ, của hiện tại rực rỡ hơn, tươi mát hơn.
“Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha”
Lời khẳng định đầy kiêu hãnh, đưa người đọc về hình ảnh mùa thu và sự thay đổi trong tư tưởng của con người. Từ “khác” không chỉ thể hiện sự khác biệt về thời gian và không gian, mà còn sự khác biệt trong cách nhìn nhận và suy nghĩ của con người. Mùa thu luôn giữ nguyên những nét đẹp của nó, với gió heo may và hương cốm. Tuy nhiên, vấn đề nằm ở cảm nhận của con người. Mùa thu xưa là mùa thu của dân tộc nô lệ, với cuộc sống đau khổ. Với sự độc lập, mùa thu đã trở nên rực rỡ hơn, phản ánh sự vui tươi và hạnh phúc của con người. Trong sự thay đổi của cuộc đời, con người giao hòa với thiên nhiên và vũ trụ, lắng nghe âm vang niềm vui độc lập. Tất cả tạo nên một không khí hân hoan, mang lại niềm hạnh phúc vô bờ.
Ở đây, không gian thu được mở rộng hơn, khoáng đạt hơn. Với tiếng gió thổi rừng tre phấp phới, ẫn là gió thu, nhưng không phải lặng lẽ, buồn bã, mà là tiếng gió phấp phới, rộn ràng, như muốn gửi trọn niềm vui của con người vào thiên nhiên, vũ trụ. Hình ảnh rừng tre tượng trưng cho sức mạnh Việt Nam, vẻ đẹp của Việt Nam, niềm vui về một thu độc lập. Tất cả như muốn cất lên tiếng reo ca rộn ràng.
Trong những giây phút xúc cảm thăng hoa, Nguyễn Đình Thi có những câu thơ hết mực tài hoa:
“ Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha”
Mùa thu như được nhân hoá, khiến người đọc cảm nhận được sự tươi trẻ, duyên dáng của thiếu nữ khoác lên mình tấm áo mới rực rỡ và dịu dàng. Tấm áo ấy có thể là biểu tượng của sự độc lập và tự do của dân tộc. Câu thơ kết hợp nét đẹp muôn đời của mùa thu với sự phấn khởi và vui mừng, gợi lên những cảm xúc sâu lắng, huyên náo, tạo nên sự giao hòa giữa niềm vui của con người và niềm vui của đất trời trong ngày độc lập.
Ở những câu thơ tiếp theo, nhà thơ trải ra những cảm xúc từ tận đáy lòng:
“ Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa”
Ở đây đã có sự thay đổi về cách sử dụng ngôn ngữ, thể hiện sự hòa nhập giữa cái tôi của Nguyễn Đình Thi, người nghệ sĩ, với sự chung của cả dân tộc. Nguyễn Đình Thi không chỉ sử dụng tiếng nói cá nhân mà còn sử dụng tiếng nói chung của cả dân tộc, bằng cách sử dụng từ “chúng ta” đầy kiêu hãnh.
Vào thời Pháp thuộc, không hề có chuyện quan niệm “chúng ta”. Tất cả đều đặt dưới sự kiểm duyệt gắt gao của bọn thực dân. Chỉ có thời đại mới, chỉ có xã hội và cái chung “của chúng ta”, chỉ có thời đại mới, chúng ta mới có thể hít thở không khí mát lành của thu tự do, chứ không còn bức bối ngột ngạt như trước. Nguyễn Đình Thi như muốn, khẳng định tính ưu biệt của xã hội mới.
3. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi học sinh giỏi:
Đất nước là đề tài lớn, xuyên suốt trong lịch sử văn học, nhưng ở mỗi thời kì văn học, đề tài này được các nhà thơ khai thác ở những góc độ khác nhau. Trong thời kì kháng chiến chống Pháp xuất hiện rất nhiễu bài thơ tập trung khắc họa hình ảnh đất nước đau thương nhưng anh hùng quật khởi, nổi bật nhất là Đất nước của Nguyễn Đình Thi. Bài thơ là cả một chặng đường nhận thức về đất nước của tác giả.
Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một bài thơ hay. Nó không thiếu tính khái quát nhưng vẫn đầy ắp ấn tượng, cảm giác về những cảm giác, những người cụ thể (đặc biệt là những cảnh, những người trong kháng chiến chống Pháp). Bài thơ vì thế không sa vào tự biện, mặt khác, có được không khí chân thực của đời sống đủ sức đồng hóa những ý thơ sẽ đôi khi được cho vào chỉ để cho “đủ”, cho “toàn diện” và “bề thế”.
Đúng như có người nhận xét, cái từ của bài thơ không được thể hiện thật rõ. Mới đọc qua phần đầu, ta khó hình dung được dòng chảy của cảm xúc hay hình tượng then chốt của bài thơ. Phải chăng việc lắp ghép một đoạn của bài Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948) với một đoạn của bài thơ Đêm mít tinh(1949) rồi kéo dài thêm để tạo ra Đất nước(1955) đã quy định đặc điểm riêng đó của bài thơ?
Trên ý nghĩa khách quan, quá trình hình thành độc đáo của bài thơ phản ánh khá rõ một chặng đường từ nhận diện để đi đến thấu hiểu về đất nước của nhà thi sĩ. Tất cả không diễn ra một sớm một chiều mà đòi hỏi phải có sự trải nghiệm, nghiền ngẫm, đòi hỏi tự nhà thơ phải vượt lên trong cuộc hòa mình vào đời sống chiến đấu của toàn dân tộc. Đối với việc bộc lộ tâm hồn của nhà thơ, cái vẻ lỏng lẻo ở kết cấu bề mặt của bài thơ lại trở nên một sáng tạo lí thú. Vì vậy, trong ý đồ sáng tạo, chưa hẳn nhà thơ đã muốn che dấu hoàn toàn những mối “hàn ghép”.
Phần đầu bài thơ – phần vẫn được đánh giá là hay hơn cả – chứa đựng rất nhiều ấn tượng cụ thể về một mùa thu đất nước. Thoạt tiên, đó là một cảm giác thư thái như muốn nhẹ nhàng bay lên theo hai câu thơ có đến 12/14 âm tiết mang thanh điệu có âm cực cao:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới.
Một sự tương đồng gợi nhớ. Một liên tưởng của nét đẹp trường cửu của mùa thu xứ sở với hơi may phảng phất và hương cốm dìu dịu tỏa bay. Mùa thu nay cũng như mùa thu xưa, thiên nhiên vẫn đẹp đến nao lòng. Có khác chăng là lòng người và hoàn cảnh xã hội. Nỗi nhớ của tác giả đã thực sự làm một đối chiếu tự nhiên để hình ảnh của ngày qua được dịp trở về vô cùng sống động:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Còn có thể nói gì thêm về câu thơ ấy? Một tiết trời dễ khiến lòng ta xao xuyến. Một chút thoáng heo may se se khơi gợi biết mấy nỗi niềm. Thu tới – không gian chợt yên ắng để tiếng nói của nội tâm cất lời. Các dãy phố như dài thêm và đượm vẻ trầm u đặc biệt, tạo nên một bối cảnh xao xác rất thích hợp cho hình ảnh người ra đi xuất hiện. Người ra đi ở đây là ai, tác giả không nói rõ cụ thể chỉ biết rằng Người ấy rời Hà Nội yêu dấu với rất nhiều quyết tâm, tương tự các tráng sĩ xưa đã lên đường là đi một mạch chẳng ngoảnh đầu trở lại.
Phải chăng đó cũng chính là mẫu người từng được Thâm Tâm nhắc tới “Một giã gia đình một dửng dưng” Và chắc chắn giống nhân vật của Tống biệt hành, người ấy tuy bên ngoài có vẻ lạnh lùng nhưng lòng thì để lại đang trăn trở thao thức với “ thềm nắng lá rơi đầy” ở phía sau lưng. Cả đoạn thơ rất giàu chất điện ảnh, trong đó câu cuối đặc tả cận cảnh để tự cảnh đó kể với người đọc bao điều.
Câu thơ ngắt nhịp 2/2/3 như muốn diễn tả vẻ rơi rơi ngập ngừng của lá vàng khô cùng niềm lưu luyến ủ kín trong lòng kẻ quyết chia tay Hà Nội để lên đường. Bề ngoài, họ không “ bước đi một bước giây giây lại dừng”, nhưng trong thâm tâm, từng chiếc lá rơi đều gieo vào lòng họ một nỗi bâng khuâng dìu dặt. Từ gần đến xa, rồi từ xa lại về gần, những câu thơ tiếp đó khơi thêm cảm xúc về mùa thu, đưa độc giả quay lại thời điểm hiện tại để được thanh thản trong niềm vui giao hòa giữa lòng người và cảnh vật.
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.
“Mùa thu nay khác rồi” là sự so sánh bật thành tiếng reo, một tiếng reo ghi nhận sự khác biệt giữa hai thời đại và khẳng định niềm vui mới đang tới. Câu thơ năm chữ xuất hiện đột ngột sau những câu bảy chữ có nội dung mạch lạc và âm điệu thật dứt khoát. Nó chứa đựng cả tình cảm và nhận thức, đồng thời lí giải sâu sắc vị trí đứng và tâm thế lắng nghe của nhà thơ giữa một bối cảnh thiên nhiên vô cùng khoáng đạt: “Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi”.
Hai chữ “vui nghe” mà càng nhận ra bao cái khác. Cái khác ấy đến từ cách thổi của gió và cách hòa điệu của rừng tre. Nó “phấp phới” như vẫy chào, mời gọi và đầy tin tưởng, không giống như cây “xao xác” chứa niềm khắc khoải mơ hồ xưa kia. Trùm lên cả người, cả rừng tre, cả núi đồi là trời thu mới mẻ tinh khôi đang hay vừa thay áo mới. Giữa những câu sáu chữ, bảy chữ dài ngắn không đều, câu thơ năm chữ “trời thu thay áo mới” rơi xuống thật ngọt ngào, ấm áp, rồi điệu thơ chuyển ngập ngừng và xúc động khôn xiết với câu “Trong biếc nói cười thiết tha”.
Trong câu thơ vừa trích có những chỗ “bất khả giải” gợi nhiều cách hiểu khác nhau. Trong niềm vui dâng đầy, mỗi chữ đều như tỏa chiếu ánh hân hoan và các thanh trắc đều dội vào lòng người một nỗi náo nức đặc biệt.Bè cao của bài thơ bỗng tách ra, vút lên trong vắt, hồn nhiên và hào hứng vô cùng: Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta. Câu thơ cao giọng mà không lên gân.
Hai câu điệp lại mang cùng một ý mang cảm hứng khẳng định mạnh mẽ – khẳng định chủ quyền của chúng ta đối với vùng trời vùng đất ta đang chiêm ngưỡng với tầm ôm chứa rộng rãi:
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa.
Nhịp điệu liệt kê dồn dập của đoạn thơ tiếp tục nhấn mạnh ý thức sở hữu của cái ta cộng đồng đối với non nước mình, mặt khác, gợi cảm giác cái ta ấy đang làm việc giới thiệu vẻ đẹp của Tổ quốc với cảm xúc tự hào và sung sướng. Nếu hai thanh trắc “ mát – ngát” kết thúc hai câu trên giống như nhấn mạnh khi giới thiệu khiến cho hình ảnh dược khắc đậm trong tâm khảm người đọc, người chứng kiến, thì hai thanh trắc liền nhau (đỏ nặng) ở phần giữa câu tiếp đó lại làm cho âm điệu của đoạn thơ trầm dần xuống để trôi xa mơ màng cùng hai thanh bằng nơi hai chữ phù sa.
Dồn dập reo hát rồi trầm lắng, bâng khuâng, đó là sự chuyển động theo chu kì của điệu thơ, tạo nên sự căng – chùng luân phiên rất đặc biệt và giàu tính nghệ thuật.Ở cuối đoạn thơ này, từ câu thơ ba chữ. cô đọng và trang nghiêm “Nước chúng ta”, độc giả được dẫn dắt vào mạch suy tư về truyền thống anh hùng của đất nước:
Nước chúng ta
Nước của những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.
Có thể xem hai câu đầu của đoạn vừa trích là một định nghĩa – cái định nghĩa khá cơ bản thể hiện nhận thức sâu sắc của nhà thơ về đất nước: Việt Nam – Ấy là một mảnh đất bất khuất. Trong bối cảnh của cuộc chiến tranh, đúng là có điều kiện nhìn rõ hơn bao giờ hết phẩm chất ấy của dân tộc mình, đất nước mình. Sau định nghĩa là chứng minh. Nhưng điểm độc đáo là nhà thơ không chứng minh bằng lí lẽ, bằng các sự kiện mà bằng một cảm nhận.
Hai chữ “rì rầm” làm câu thơ trở nên giàu ấn tượng, khiến cho khái niệm “tiếng nói ông cha” vẫn thường quen nói bớt vẻ trừu tượng, mơ hồ để trở nên sống động cụ thể. Quả thật, đây là kiểu chứng minh rất thơ và cũng rất Nguyễn Đình Thi nữa! Trước khi nói với những ai, nó đã chứng minh cho mình hiểu thêm về đất nước. Từ những mối xúc động tuy phong phú nhưng không rõ rệt ban đầu trước một sáng thu Hà Nội đến thứ tình cảm được tổ chức lại và có định hướng như vừa phân tích trên, hẳn đó là cả một chặng đường dài nhận thức.
Khi đã chạm tới cốt lõi của vấn đề, ý thơ ngày càng sáng và mạch thơ ngày càng lộ rõ. Nếu đoạn thơ trước diễn tả sinh động quá trình đi từ cảm giác đến ý niệm thì đoạn thơ sau giống như sự thể nghiệm của nhận thức bằng thực tiễn. Không phải ngẫu nhiên mà từ “Ôi những cánh đồng quê” … trở đi, cách biểu đạt thơ đã đổi khác, những hình ảnh thực tế giàu biểu trưng và song hành và đôi khi hòa lẫn với những khái quát luận trực tiếp.
Sự phân khổ bốn câu đều đặn một mặt làm các ý thơ hơi tải ra, mặt khác, lại có vẻ cần thiết cho sự dẫn giải, lập luận vốn đòi hỏi sự sáng sủa, lô-gíc. Hay nhất trong phần hai của bài thơ có lẽ là khổ này:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Đây là những câu thơ từng trải, kết quả của một vốn sống phong phú. Nếu chưa từng biết đến những “ đêm dài hành ”, chưa từng chứng kiến những cảnh xóm làng tan hoang vì sự tàn phá của quân thù, chưa từng thấy những gai nhọn tua tủa của dây thép gai cản vương tầm mắt hằn rõ lên hoàng hôn bầm đỏ một màu máu, thì không thể viết được những câu thơ như thế. Những từ “chảy máu”, “đâm nát” đâu chỉ đơn giản là thủ pháp tạo hình, gây ấn tượng của thơ.
Nó trước hết là nỗi quặn lòng, là sự đau đớn vò xé tâm can. Cũng như từ “bồn chồn” rất gợi ở câu sau đó. Nó chính là cuộc đời. Cuộc đời làm cho lòng yêu thương ta thêm lớn, thêm sâu, giúp ta bắt được mạch sống lớn của dân tộc để từ đó mọi buồn vui xúc cảm thực sự mang ý nghĩa đại diện.
Nếu xem bài thơ (trong đặc điểm ghép mối đã nói trên của nó) là một sự phản ánh chân thực quá trình chuyển tiếp phong cách thơ cũng như nhận thức chính trị – xã hội của Nguyễn Đình Thi, thì khổ thơ này giống như cái bản lề giúp ta hiểu thấu các giai đoạn của quá trình. Từ đây, bắt đầu một sự hòa nhập thơ của Nguyễn Đình Thi vào cái phong cách thơ mang ý nghĩa thời đại: cảm xúc cá nhân, riêng tư (hiểu theo nghĩa hẹp).
Bắt đầu mờ dần để tiếng nói công nhân sang sảng cất lời. Thời gian mở ra (từ “sáng chớm lạnh” của kỉ niệm riêng đến những năm đau thương, “ngày nắng đốt theo đêm mưa dội” của cả dân tộc), không gian mở ra (từ “thềm nắng lá rơi đầy”) Hà Nội quen thuộc đến quê hương, đất nước, “trời đất mới” không còn của riêng của một con người và lịch sử cũng mang chiều kích mới (từ lịch sử một tâm hồn đầy “nhớ”, đầy “xao xác”, thậm chí cả “phấp phới” đến lịch sử một đất nước vận động từ “đau thương”, “căm hờn” đến “ đứng dậy”, “vỡ bờ”).
Tất cả những sự “mở ra” nói trên đã làm cho các ý thơ mang tính khái quát cao hơn phù hợp với tầm vóc của đề tài và các hình ảnh cũng mang những nét hoành tráng khác trước với những biểu hiện tình cảm vừa trầm tĩnh vừa phấn khích. Lúc này, hình ảnh người ra đi xuất hiện đầu bài thơ đã thu hút vào trong hình tượng lớn: cả dân tộc là một khối thống nhất, “trán đẫm mồ hôi và hi vọng”, rắn rỏi, mạnh mẽ bước tới tương lai:
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh
Cái “được” nhất của mảng thơ sau này chính là hơi thơ. Tiếng nói của một cá nhân âm vang tiếng nói của một dân tộc “Đã đứng lên thành những anh hùng”, cho nên, nhiều điều to tát đã nói ra mà không gây cảm xúc khó chịu. Sự nhân danh một cái gì to lớn hơn của nhà thơ được tiếp nhận tự nhiên, bởi sự thật ông đã đồng cảm với mạch sống lớn của dân tộc qua khát vọng chân thành, muốn nắm bắt và thấu hiểu nó.
Khổ cuối cùng của bài thơ là một cái “kết” xứng đáng với bản tráng ca về đất nước:
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.
Sau những khổ thơ bảy chữ mang âm hưởng của một giọng kể trầm vang chứa chất từng trải với cách ngắt nhịp phổ biến 3/4 dễ tạo cảm giác bề thế, là khổ thơ sáu chữ dường như muốn cô đọng lại, nén lại mà vẫn muốn toả ra. Cảm xúc vừa muốn tiết chế vừa muốn buông thả tự nhiên theo những từ có khả năng đập mạnh vào cảm giác, gợi nghĩ đến sự chuyển rung đi lên.
Đoạn thơ không chỉ có sự thuyết phục của ý tứ mà còn có sức thuyết phục của một hình ảnh thực tế được biểu trưng hóa, chưa để mất hết những dấu vết cụ thể cảm tính (“rung trời”, “người như nước vỡ bờ”, “rũ bùn”, “đứng dậy”, “sáng lòa” ). Phải nói rằng, thơ Nguyễn Đình Thi thường rất hay trong những trường hợp tương tự, khi những chi tiết đời sống đưa vào qua sự chọn lọc của một hồn thơ vừa mạnh ở cảm giác, vừa mạnh ở khả năng khái quát trí tuệ.
Hình tượng đất nước vừa mang vẻ đẹp hiền hòa trong sắc thu, hương thu, mang cái bát ngát của quân và dân ta trong những năm dài kháng chiến. “Đất nước” là bài thơ kiệt tác, mà người đọc lúc nào cũng cảm thấy mới mẻ, niềm tự hào dân tộc cứ lâng lâng mãi tâm hồn mỗi chúng ta.
4. So sánh và liên hệ với bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm :
Đất nước của Nguyễn Đình Thi:
Bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi thể hiện sự cảm nhận về đất nước theo hai chiều không gian và thời gian khác nhau. Trong mùa thu ở Hà Nội và mùa thu kháng chiến, nhà thơ nhớ lại những kí ức và hoài niệm về đất nước. Tuy nhiên, đồng thời, Nguyễn Đình Thi cũng tỏ ra tự hào với truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam. Từ đó, bức tranh về đất nước trong thơ Nguyễn Đình Thi được khắc họa với sự đau thương nhưng đầy kiên cường và bất khuất.
Bài thơ “Đất nước” của
Bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã truyền tải một cách nhìn về đất nước cụ thể mà khái quát, bình dị nhưng lại lớn lao và sâu sắc:
– Đất nước không chỉ là tổng hợp những thứ bé nhỏ, gần gũi và riêng tư trong cuộc sống của mỗi người, mà còn là sự hòa quyện không thể tách rời giữa cá nhân và cộng đồng dân tộc.
– Hình tượng đất nước được mở rộng ở bề rộng không gian, chiều dài thời gian và chiều sâu văn hóa, gắn với lịch sử và truyền thống dân gian lâu đời của một dân tộc.
– Vận dụng phong phú chất liệu văn hóa và VHDG, Nguyễn Khoa Điềm tạo nên một cách thể hiện đậm đà màu sắc dân gian. “Đất nước của nhân dân” trở thành hình tượng trung tâm, gần gũi và giàu sức gợi cảm. => Từ đó, bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm làm rõ một tư tưởng quan trọng: Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại.
Lí giải nguyên nhân của sự khác biệt:
– Mỗi nhà văn là một người nghệ sĩ mang phong cách nghệ thuật của riêng mình.
– Do sự tác động của hoàn cảnh xã hội, văn hóa cũng như điều kiện sáng tác của hai tác phẩm.
THAM KHẢO THÊM: