Hệ thống tài chính (HTTC) là các định chế tài chính và thị trường tài chính (TTTC) (bao gồm thị trường tiền tệ, thị trường tín dụng - ngân hàng, thị trường chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu)), có vai trò quan trọng trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế. Sự phát triển lành mạnh của HTTC là một nhân tố thiết yếu đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Mục lục bài viết
1. Bức tranh phát triển của Hệ thống tài chính Việt Nam:
Trong quá trình cải cách định hướng thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, Hệ thống tài chính (HTTC) Việt Nam đã từng bước phát triển, thể hiện trên các phương diện chủ yếu sau.
+ Các bộ phận cấu thành cơ bản của thị trường tài chính (TTTC) được hình thành. Thị trường tiền tệ, thị trường trái phiếu và thị trường cổ phiếu cùng các loại công cụ tài chính hay giấy tờ có giá, đã dần trở nên quen thuộc với công chúng. Nhiều định chế trung gian mới như công ty chứng khoán, công ty tài chính, công ty bảo hiểm nhân thọ, quỹ đầu tư,… được thành lập, trong đó một số hoạt động tương đối năng động và hiệu quả.
+ HTTC và TTTC bước đầu tạo tiền đề cho việc thực hiện tốt vai trò, chức năng của mình. Thị trường tiền tệ từng bước phát triển, hoàn thiện theo hướng thị trường, là một cơ sở quan trọng để Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chuyển sang áp dụng có hiệu quả hơn các công cụ tiền tệ, thực thi linh hoạt chính sách tiền tệ. Thị trường chứng khoán đã có những đóng góp ban đầu, dẫu còn chưa lớn, trong việc huy động các nguồn vốn dài hạn cho nền kinh tế.
Đặc biệt, hệ thống ngân hàng có những thay đổi theo hướng tích cực, ngày càng có vai trò trung gian lớn hơn trong huy động và phân bổ các nguồn vốn. Hệ thống ngân hàng bước đầu tiếp cận với một số hình thức kinh doanh hiện đại, theo thông lệ quốc tế. Chính sách tín dụng đối xử ngày càng bình đẳng hơn đối với thành phần kinh tế ngoài nhà nước. Tín dụng cho khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) có xu hướng giảm dần, trong khi đó tín dụng cho khu vực tư nhân ngày càng tăng. Khu vực ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài tăng sự hiện diện, với hình thức, phạm vi hoạt động tài chính ngày càng đa dạng và phát triển. Mức độ tích tụ của các ngân hàng nhà nước giảm (mặc dầu còn cao), với vốn chủ sở hữu ngày càng tăng. Một số ngân hàng thương mại nhà nước đã bắt đầu cổ phần hóa (một phần), góp phần thu hút nguồn vốn và nâng cao năng lực quản trị.
+ HTTC dần được vận hành trong khung khổ pháp lý ngày càng hoàn thiện, mang tính thị trường hơn, bước đầu kết hợp được kinh nghiệm quốc tế với tình hình cụ thể ở Việt Nam. Các nguyên tắc quản lý tài chính tiên tiến và chuẩn mực quốc tế về tính minh bạch, kế toán, kiểm toán, giám sát,… đã và đang được thể chế hoá và ứng dụng trong thực tế. Các chính sách quản lý, phát triển TTTC cũng từng bước được hoàn thiện.
+ Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý HTTC và TTTC (như NHNN, Bộ Tài chính, trong đó có Ủy ban Chứng khoán Nhà nước) đã được thể chế hoá.
Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý HTTC và TTTC cũng như với các bộ ngành liên quan trong xử lý các vấn đề tác nghiệp phát sinh trở nên chặt chẽ hơn. Cùng với đó, hệ thống giám sát cũng đã hình thành và có bước phát triển nhất định, hoạt động theo mô hình giám sát theo định chế hay theo chuyên ngành.
2. Những yếu kém, rủi ro của hệ thống tài chính Việt Nam:
Tuy đã có những bước tiến tích cực, song nhìn tổng thể HTTC Việt Nam vẫn ở những nấc thang phát triển ban đầu, còn chứa đựng nhiều rủi ro không thể xem thường. Đến nay, TTTC Việt Nam đạt trình độ phát triển còn thấp, năm 2011 đứng ở thứ hạng 50 trên 60 TTTC phát triển nhất được xếp hạng theo đánh giá của Báo cáo Chỉ số Phát triển tài chính 2011 của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF 2011).
Xét theo từng chỉ số tài chính, trình độ phát triển về lượng của hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đạt gần mức trung bình, kể cả các chỉ số dịch vụ ngân hàng; trong khi đó, xếp hạng về thị trường chứng khoán Việt Nam tương đối thấp. Khu vực dịch vụ ngân hàng Việt Nam được đánh giá khá tốt về hiệu quả hoạt động và độ sâu tài chính. Tuy nhiên, tỷ trọng sở hữu nhà nước quá cao là yếu tố “giảm thiểu” hiệu quả hoạt động và quản trị của toàn ngành ngân hàng.
So sánh chung toàn cầu cho thấy, môi trường thể chế, kinh doanh của Việt Nam và trình độ phát triển các thị trường cấu thành TTTC Việt Nam còn kém phát triển, đặc biệt là các chuẩn mực về quản trị công ty, bao gồm chuẩn mực kiểm toán và
Xếp hạng trình độ phát triển tài chính Việt Nam theo một số chỉ tiêu chọn lọc, 2011
Các chỉ số | Thứ hạng (trong 60 TTTC được xếp hạng) |
1. Môi trường thể chế | 48 |
Tự do hóa tài chính | 48 |
Quản trị công ty Trong đó: + Áp dụng và hiệu lực các chuẩn mực về kiểm toán và báo cáo tài chính + Hiệu quả Hội đồng quản trị | 54 59 49 |
+ Bảo vệ lợi ích cổ đông thiểu số | 43 |
Hiệu lực hợp đồng | 41 |
2. Môi trường kinh doanh | 53 |
Nhân lực | 57 |
Thuế | 55 |
Hạ tầng | 37 |
Chi phí kinh doanh | 51 |
Ổn định tài chính | 53 |
Ổn định tiền tệ | 43 |
Ổn định hệ thống ngân hàng | 36 |
Rủi ro khủng hoảng nợ công | 52 |
4. Dịch vụ tài chính ngân hàng | 29 |
Chỉ số dung lượng (các chỉ số độ sâu tài chính so với GDP) | 20 |
Chỉ số hiệu quả. Trong đó, +Chỉ số lợi nhuận toàn ngành +Chi phí ngân hàng +Sở hữu nhà nước trong ngân hàng | 27 12 2 51 |
Công khai thông tin tài chính | 40 |
5. Dịch vụ tài chính phi ngân hàng | 48 |
Họat động IPO | 49 |
Hoạt động M&A | 46 |
Bảo hiểm | 43 |
Chứng khoán | 33 |
6. Thị trường tài chính | 49 |
Phát triển thị trường cổ phiếu | 49 |
Phát triển thị trường trái phiếu | 42 |
7. Tiếp cận tài chính | 30 |
Ngoài những yếu kém, rủi ro của từng thị trường cấu thành sẽ được chỉ ra dưới đây, giám sát tài chính – một yếu tố mang tính sống còn đối với sự vận hành, phát triển thị trường – vẫn còn không ít bất cập.
1. Các cơ quan giám sát (NHNN, UBCKNN và Giám sát Bảo hiểm) vừa thực hiện chức năng cấp phép, ban hành cơ chế – chính sách, vừa thực hiện chức năng hướng dẫn, triển khai thực hiện cơ chế chính sách và kiêm luôn vai trò kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các định chế tài chính. Điều này dễ dẫn tới xung đột về lợi ích, hiệu quả và hiệu lực giám sát không cao. Đặc biệt, hiện vẫn chưa có một cơ quan giám sát tài chính vĩ mô có đủ thẩm quyền và năng lực bộ máy để có thể cảnh báo, ngăn ngừa và xử lý hữu hiệu các loại rủi ro của HTTC đất nước. Điều này có liên quan đến bản chất của mô hình giám sát tài chính ở Việt Nam. Bản thân vị thế pháp lý yếu còn kém so với những “trọng trách” được giao của Uy ban Giám sát tài chính quốc gia (UBGSTCQG) cũng là nhân tố khiến sự phối kết hợp thiếu chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý, giám sát HTTC và TTTC.
2. Việc thực hiện giám sát trên cơ sở rủi ro, giám sát an toàn vĩ mô còn yếu kém; chủ yếu thiên về giám sát tuân thủ. Giám sát vẫn chưa bao quát được hoạt động của các tập đoàn kinh tế, nhất là tập đoàn tài chính (cả chính thức lẫn phi chính thức) trong nước, các tập đoàn xuyên quốc gia. Giám sát các rủi ro sở hữu chéo (giữa các ngân hàng, các định chế tài chính, tập đoàn, tổng công ty) yếu do thiếu minh bạch, công khai, đặc biệt do thiếu sự phối kết hợp, liên thông trong giám sát toàn bộ HTTC.
3. Hiện cũng còn thiếu khuyết các công cụ phục vụ cho giám sát an toàn vĩ mô và giám sát an toàn vi mô, nhất là đối với giám sát dựa trên rủi ro. Các mô hình phân tích định lượng, dự báo, kiểm định (như Mô hình Cảnh báo sớm khủng hoảng (EWS), Kiểm định khả năng chịu đựng các cú sốc tài chính – tiền tệ (ST), Giá trị có thể tổn thất (VaR) cho cả HTTC và cho từng định chế tài chính/danh mục đầu tư chưa được phát triển và thiếu thử nghiệm. Khác biệt giữa các tiêu chuẩn an toàn hoạt động, kế toán và kiểm toán của Việt Nam với tiêu chuẩn, thông lệ của quốc tế còn đáng kể. Điều này khiến việc áp dụng các chỉ tiêu an toàn hoạt động tài chính (ví dụ, tiêu chuẩn nợ xấu) không mang lại kết quả như ý muốn; gây ra một số khó khăn khi thực hiện giám sát các tổ chức tài chính quốc tế có hoạt động tại Việt Nam.
4. Bản thân các cơ quan thanh tra giám sát tài chính còn hạn chế, cả trên phương diện kỹ thuật lẫn nguồn nhân lực. Đến nay, công nghệ thu thập, xử lý thông tin để phục vụ cho hoạt động giám sát từ xa còn lạc hậu; trong khi đó, hiệu quả hoạt động giám sát tài chính lại phụ thuộc nhiều về khả năng thu thập thông tin, nhất là có được một hệ thống thông tin quản lý có khả năng cập nhật thông tin từ cơ sở đến cơ quan giám sát một cách nhanh chóng và chính xác. Chất lượng nguồn nhân lực giám sát còn bất cập so với yêu cầu. Nhìn chung, cán bộ thanh tra, giám sát chưa có khả năng sử dụng mô hình kiểm định và kiểm tra tính hiệu quả của mô hình quản trị rủi ro của các tổ chức tài chính.
Thách thức, rủi ro ở đây là hoạt động giám sát các định chế tài chính ngày càng trở nên khó khăn do sự gia tăng các sáng tạo tài chính và công nghệ thông tin – truyền thông, tự do hóa kinh tế – tài chính, các bộ phận của TTTC ngày càng đan xen nhau chặt chẽ;3 các tổ chức tài chính ngày càng trở nên đa năng, đa quốc gia. Điều này đòi hỏi các cơ quan giám sát phải có tầm nhìn toàn cầu, khu vực và sự phối hợp chặt chẽ trong việc vừa quản lý một cách hiệu quả, vừa tạo điều kiện cho các bộ phận TTTC phát triển. Sự phối hợp này là rất cần thiết từ việc lập chiến lược phát triển tổng thể HTTC, sự hợp tác thường xuyên trong việc quản lý, xử lý những vấn đề của thị trường (nhất là lĩnh vực chứng khoán – ngân hàng), cho đến việc giám sát một cách có hiệu quả các đối tượng tham gia và hoạt động đan xen trên thị trường.
Bản thân từng cấu thành của TTTC Việt Nam cũng còn không ít yếu kém, rủi ro.
2.1. Đối với hệ thống ngân hàng:
Thứ nhất, tuy đã giảm đáng kể, mức độ tích tụ và phân khúc thị trường còn tương đối cao; các ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nước hiện vẫn chiếm khoảng 55 – 57% thị phần huy động tiền gửi và thị phần tín dụng của toàn hệ thống. Các quỹ tín dụng nhân dân, số lượng lớn, song có thị phần huy động tiền gửi rất nhỏ (dưới 1%) và hoạt động chưa có hiệu quả cao. Tuy có xu hướng giảm trong vài ba năm gần đây, sự phân khúc thị trường thể hiện tương đối rõ ở các nhóm khách hàng theo ngành nghề kinh tế và theo khu vực sở hữu. Trong khi đó, phân khúc thị trường tín dụng vi mô, tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa được quan tâm đúng mức.
Thứ hai, rủi ro tín dụng rất lớn, trước hết có liên quan đến các khoản nợ xấu. Nợ xấu của các NHTM Việt Nam chủ yếu xuất phát từ việc thiếu/không giám định chặt chẽ các khoản vay có liên quan tới: (1) cho vay chính sách (theo chỉ định chính thức của Chính phủ và chỉ định ngầm); (2) cho vay các dự án/doanh nghiệp của các thành viên hội đồng quản trị/lãnh đạo các ngân hàng thương mại hoặc vay theo chủ nghĩa thân quen (cánh hẩu); (3) các khoản vay bất động sản/chứng khoán (chính thức, hoặc „đội mũ“ cho vay sản xuất – tiêu dùng).
Rủi ro khoản vay còn liên quan đến các khoản thế chấp có giá trị có thể sụt giảm mạnh khi‚ bong bóng tài sản xì hơi và hoặc/và được định giá quá cao (có chủ ý) (ví dụ, bất động sản), hoặc do rủi ro chính sách. Ngoài ra, việc chưa áp dụng đầy đủ các chuẩn mực phân loại nợ quốc tế có thể tạo tâm lý xem nhẹ nợ xấu và các rủi ro kèm theo.
Thứ ba, rủi ro tín dụng có liên quan tới tình trạng “sai lệch kép” quá mức (trong cơ cấu kỳ hạn và cơ cầu đồng tiền trong bảng cân đối của các NHTM). Tình trạng sai lệch quá mức về cơ cấu thời hạn có thể thấy ở việc nguồn vốn huy động không kỳ hạn và ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn, khoảng 75% song được các NHTM sử dụng một tỷ trọng quá mức để cho vay trung và dài hạn. Tình trạng này gây rủi ro lớn, đặc biệt là khi nguồn vốn được cho vay các dự án có hiệu quả thấp, thiếu sự thẩm định cần thiết. Mức sai lệch về cơ cấu đồng tiền rất nhạy cảm với biến động tỷ giá, lãi suất, nhất là trong bối cảnh tình trạng đô la hóa cao và tài khoản vốn được tự do hóa dần ở Việt Nam.
Thứ tư, rủi ro hoạt động còn liên quan tới tình trạng sở hữu chéo cổ phần (giữa các ngân hàng thương mại, các tập đoàn/tổng công ty có các hoạt động liên quan tới hoạt động tài chính, bất động sản). Tình trạng này tạo ra các nhóm lợi ích có thể chi phối thị trường, gây khó tách bạch sở hữu, do vậy, cản trở quá trình giám sát, tái cơ cấu ngân hàng; gây ra những cơn biến động mạnh về giá cả trên thị trường chứng khoán.
Thứ năm, rủi ro hoạt động, nhất là rủi ro thanh khoản, lãi suất còn cao, nhất là khi nhiều ngân hàng có năng lực tài chính hạn chế, năng lực quản trị rủi ro yếu kém (các chỉ tiêu CAMEL chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của Basel I), có nguồn thu nhập chủ yếu dựa vào hoạt động tín dụng.
Thứ sáu, các thông lệ, chuẩn mực quốc tế về quản lý, quản trị ngân hàng như quản lý rủi ro, quản trị tài sản có, tài sản nợ, khách hàng, sản phẩm, kiểm toán nội bộ,… mới được áp dụng, nên chưa thật sự hiệu quả và có hiệu lực cao. Nhìn chung, trình độ quản trị nội tại ngân hàng còn chưa đáp ứng tốt các chuẩn mực quốc tế như CAMELS và Basel.
Thứ bảy, bên cạnh thị trường tín dụng chính thức, ở Việt Nam còn tồn tại thị trường tín dụng phi chính thức với quy mô khá lớn, chủ yếu ở nông thôn. Các vụ đổ vỡ tín dụng đen từ năm 2011 đến nay cho thấy rõ quy mô và thiệt hại rất lớn của việc đổ vỡ kênh tín dụng này.
Từ năm 2011 đến nay, trong bối cảnh NHNN thắt chặt tiền tệ, mức lãi suất cho vay rất cao và có chọn lọc, thị trường bất động sản lao dốc, nhiều (khoảng 12%) doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải tạm ngừng hoạt động, giải thể, cùng với tác động tiêu cực của khó khăn kinh tế trong nước và quốc tế, các yếu kém, rủi ro kể trên bắt đầu bộc lộ, đặc biệt là vấn đề thanh khoản, nợ xấu. Những khó khăn này đã buộc NHNN phải tái cơ cấu khu vực ngân hàng theo năng lực tài chính, nợ xấu và khả năng thanh khoản.
2.2. Đối với thị trường chứng khoán:
Thứ nhất, mức hiệu quả thị trường thấp thể hiện phần nào ở thực trạng là gía cả hàng hóa không phản ánh tức thời các thông tin trên thị trường và mức biến động về giá là rất lớn. Thị trường trái phiếu, nhất là trái phiếu công ty – vốn được coi có vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu rủi ro hệ thống (giảm thiểu sai lệch kép) vẫn kém phát triển (tổng vốn hóa thị trường trái phiếu Chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp tương ứng tương đương khoảng trên 16% năm và khoảng 2% GDP năm 2009). Thị trường chứng khoán kém phát triển cũng khiến các NHTM phải “đảm trách” việc cung cấp vốn dài hạn cho nền kinh tế – điều gây ra nhiều cơ rủi ro cho toàn HTTC.
Thứ hai, ngoài nhân tố xuất phát điểm thấp, sự biến động mạnh trên thị trường là do trên thị trường còn ít hàng hóa có chất lượng/công ty lớn; tình trạng sở hữu chéo, thông tin chưa minh bạch; đặc biệt, chịu sự chi phối hành vi đầu cơ của các nhà tạo lập thị trường có vốn lớn, có thông tin nội gián và được sự ‘ưu ái’ của các công ty chứng khoán trong thanh toán và sử dụng các công cụ phái sinh (phi pháp), trong khi năng lực giám sát của UBCKNN chưa theo kịp, và chưa có chế tài thực thi, kỷ luật thị trường có hiệu lực cao. Mức giá thị trường, nhất là giá Phát hành lần đầu ra công chúng (IPO), trong thời gian dài được định ở mức quá cao. Thêm vào đó, lượng cung trên thị trường được cung ứng không đều, lúc quá nhiều, khi quá ít cũng dẫn đến những đột biến về giá cả trên thị trường.
Thứ ba, việc cổ phần hoá nhiều khi gắn kết không chặt với việc niêm yết (thường sau 2-5 tháng, có trường hợp kéo dài trên dưới 2 năm như SABECO, HABECO, Bảo Việt). Tính đại chúng của nhiều công ty niêm yết chưa cao, chưa đáp ứng được của một trong những tiêu chuẩn niêm yết là phân tán cổ phiếu trong công chúng. Cơ chế xác định giá cổ phiếu trên thị trường sơ cấp (IPO), nhất là trong giai đoạn từ quý I/2008 trở về trước, còn quá “méo mó”, bị chi phối bởi các hành vi tận thu (bán giá cao cho các nhà đầu tư, kể cả đầu tư chiến lược), đầu cơ, thao túng và trục lợi bất chính và các động cơ khác, có ảnh hưởng xấu tới sự phát triển lành mạnh của thị trường (làm tăng rất nhiều lần giá trúng đấu giá). Việc công bố thông tin về doanh nghiệp đấu giá cổ phần (trong Bản cáo bạch, báo cáo tài chính) còn bất cập, không trung thực.
Thứ tư, các nhà đầu tư có tổ chức, chuyên nghiệp vẫn chưa nhiều; chủ yếu vẫn là các nhà đầu tư cá nhân, gần đây đã ít nhiều chuyên nghiệp hơn, song vẫn thiếu kỹ năng đầu tư và hạn chế rủi ro. Hành vi đầu tư của hầu hết các nhà đầu tư trong nước vẫn còn mang tính “bầy đàn” thái quá, nhất là trong bối cảnh thông tin thị trường còn quá bất cập và hiệu lực pháp luật/kỷ luật thị trưởng yếu. Các định chế trung gian, nhất là các công ty chứng khoán do quy mô vốn nhỏ, số lượng quá đông so với tổng vốn hóa/giá trị giao dịch thị trường, trong khi đó năng lực về vốn và quản lý, nhân lực thấp, nên rất nhiều công ty hoạt động kém hiệu quả. Trên thị trường thực sự vẫn còn thiếu vắng một số định chế tài chính quan trọng như các công ty xếp hạng tín nhiệm (có vai trò đặc biệt đối với thị trường trái phiếu), các ngân hàng đầu tư, các quỹ hưu trí và quỹ đầu tư tương hỗ. Các định chế bảo lãnh phát hành ở Việt Nam vẫn chủ yếu là các NHTM nhà nước; các công ty chứng khoán thực hiện bảo lãnh phát hành cổ phiếu chưa nhiều, chủ yếu là bảo lãnh phát hành đối với trái phiếu chính phủ.
Thứ năm, trong thời gian dài, lãi suất trái phiếu chính phủ vẫn chưa tạo dựng được đường cong lãi suất chuẩn làm cơ sở cho việc phát hành trái phiếu công ty và các hoạt động đầu tư trên TTTC. Thành phần tham gia đấu thầu trái phiếu chính phủ trên thực tế chủ yếu vẫn là các NHTM nhà nước và các hoạt động giao dịch chủ yếu trên thị trường sơ cấp. Mức ấn định lãi suất trái phiếu đối khi không hợp lý, thiếu hấp dẫn, là một nguyên nhân khiến nhiều cuộc đấu thầu (nhất là trong năm 2008-2009) bị thất bại (Sự ra đời của thị trường chuyên biệt gần đây mong rằng giải quyết đáng kể những bất cập kể trên).
Thứ sáu, quản trị doanh nghiệp cổ phần tuy được cải thiện đáng kể trong các công ty niêm yết song quyền lợi hợp pháp của các cổ đông thiểu số vẫn chưa được bảo vệ hữu hiệu trên thực tế. Tỷ trọng vốn nhà nước vẫn còn lớn trong nhiều DNNN lớn (khoảng 75%), là tác nhân được coi là ảnh hưởng tiêu cực tới (mức độ cải thiện) chất lượng quản trị và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp (trong thời gian dài, ở Trung Quốc tình trạng này rất phổ biến). Hiện tượng giao dịch nội gián vẫn còn và nhiều trường hợp chưa được nghiêm trị đích đáng.
Thứ bảy, chuẩn mực về công bố thông tin, khả năng giám sát thị trường chậm được cải thiện, không theo kịp với sự phát triển năng động, tinh vi của thị trường, Cách thức công bố thông tin chưa đáp ứng chuẩn mực quốc tế; các thông tin đưa sai chậm được cải chính. Đối với các công ty không niêm yết, chỉ có một số nhỏ là thực hiện nghĩa vụ báo cáo cho các cơ quan nhà nước có liên quan. Khả năng kiểm soát các luồng vốn gián tiếp (nhất là giá trị, nguồn gốc) của các nhà đầu tư nước ngoài chậm được cải thiện, đặc biệt, đối với nguồn vốn đầu tư theo uỷ thác.
Các chuẩn mực kế toán, kiểm toán và báo cáo tài chính vẫn còn hạn chế, đang trong quá trình tương thích hoá với các chuẩn mực quốc tế. Tính xác thực, chất lượng của các báo cáo tài chính là rất thấp, nhất là đối với các báo cáo chưa kiểm toán. Việc cưỡng chế thực thi pháp luật đối với các trường hợp không tuân thủ nhìn chung còn yếu. Ngoài ra, hệ thống thanh toán, hạ tầng công nghệ thông tin chưa theo kịp sự phát triển của thị trường cũng là những tác nhân kìm hãm sự phát triển lành mạnh của thị trường.
Cuối cùng, việc nhiều tổng công ty nhà nước đầu tư vào các lĩnh vực ngoài lĩnh vực kinh doanh cốt lõi (vào thị trường chứng cổ phiếu, thành lập các định chế tài chính, trong đó có các công ty chứng khoán, quỹ đầu tư) trong khi thiếu năng lực cần thiết cũng không những gây rủi ro cho bản thân mà còn gây rủi ro cho cả HTTC.