Phân tích hình ảnh người bà trong bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy là một đề bài hay, giúp các em thấy được hình ảnh người bà rong ruổi buôn bán, với những lo toan cuộc sống, với tình yêu thương vô bờ bến cho bạn. Các bạn cùng tham khảo nhé.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích hình ảnh người bà trong bài Đò Lèn của Nguyễn Duy:
1.1. Mở Bài:
Giới thiệu chung về tác giả và tác phẩm;
– Hình ảnh người bà xuất hiện trong các tác phẩm văn học và người bà trong bài thơ “Đò lèn”
1.2. Thân Bài:
– Hình ảnh người bà được tác giả xây dựng trong bài thơ là người bà rất thương yêu cháu:
→ Tuổi thơ của tác giả luôn gắn liền với hình bóng bà, sự gần gũi với người bà đáng kính, quen thuộc.
– Người bà cần cù chịu thương chịu khó, cơ cực, chịu nhiều vất vả
– Bà là người bà giàu lòng hy sinh. Những tình cảm và sự hi sinh của bà giành cho châu thật cao thượng như những bậc thánh thần. Bà gánh vác mọi trách nhiệm của một người cha, người mẹ để chăm sóc cho đứa châu thân thương.
– Trong chiến tranh, bà mạnh mẽ, dũng cảm kiên cường với cuộc sống mưu sinh đầy gian khổ, nguy hiểm.
– Sự ra đi của bà để lại nhiều đau thương, tiếc nuối, ân hận cho người cháu vì cháu trai thờ ơ, không nhận ra sự gian khổ, vất vả của người bà sớm hơn.
1.3. Kết Bài:
Cảm nghĩ về hình ảnh người bà trong tác phẩm “Đò lèn”.
2. Phân tích hình ảnh người bà trong bài Đò Lèn của Nguyễn Duy hay nhất:
Văn học Việt Nam đã có nhiều bài thơ về những người bà đáng kính, nhưng bài thơ để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng người đọc có lẽ là bài thơ “Đò lèn” của Nguyễn Duy. Nổi bật trong tác phẩm là hình ảnh người bà yêu thương cháu vô điều kiện:
“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”
Vì chỉ có hai bà cháu nên bà nội dẫn cháu đi khắp nơi. Cậu bé tinh nghịch ấy “níu váy bà đi chợ Bình Lâm” và cũng chính là bà nắm tay cậu đi đến những nơi linh thiêng như chốn cửa Phật, chùa chiền, đình đền để xem các buổi hát văn, dẫn cháu đi xem cô đồng và xem lễ ở đền Sòng. Bà hẳn là người có tấm lòng nhân hậu mới đến những ngôi chùa linh thiêng như vậy. Có lẽ khi bà dẫn cháu đi cùng, bà cũng mong cháu có một tâm hồn luôn hướng tới điều thiện và cống hiến cho cuộc sống.
Sống trong thời chiến tranh, những gian khổ, vất vả của bà nội dường như tăng lên gấp bội:
“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”
Bà không ngại công việc nặng nhọc, mà ngược lại, bà làm nhiều công việc khác nhau để nuôi dạy đứa cháu lớn khôn thành người. Bà làm đủ mọi việc, không ngại khó, ngại khổ mà bà chỉ muốn chăm lo cuộc sống của người châu được đầy đủ. Đối với bà, đó không chỉ là trách nhiệm mà còn là tình yêu thương cá nhân của bà dành cho đứa cháu bé nhỏ. Chiến tranh đồng nghĩa với mất mát và đói khát. Trong những năm đói kém, hai người phải ăn “củ dong riềng luộc sượng” để có thể sống sót.
Chính vì sự vất vả và lam lũ, cùng đức hi sinh cao cả của bà, nhà thơ cảm thấy:
“Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần”
Đối với người cháu, bà cao thượng như các một vị tiên. Bà là một người hiền từ, nhân hậu, đối với cháu bà như các bà tiên bước ra từ trong câu truyện cổ tích. Bà đã gánh vác trách nhiệm của cha mẹ người cháu nên bà luôn cố gắng hết sức để chăm sóc cuộc sống của cháu một cách trọn vẹn, bất kể bà có phải trải qua bao nhiêu khó khăn.
Chiến tranh tuy khốc liệt không làm con người chúng ta bị nản chí mà qua cuộc chiến tranh còn làm cho mỗi con người chúng ta trở nên mạnh mẽ, kiên cường hơn, và bà cũng như vậy. Bom đạn của kẻ thù không làm bà sợ hãi mà khiến bà mạnh mẽ và dũng cảm hơn:
“Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”
Hình ảnh người bà càng trở nên thiêng liêng và bất tử hơn khi người cháu trở về nhà, và cháu cảm thấy vô cùng hối hận vì ngày còn bé cháu đã không hiểu rõ được những vất vả gian lao mà bà phải trải qua để nuôi mình khôn lớn:
“Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi”
Lúc này, người cháu mới nhận ra bà nội có ý nghĩa với mình đến nhường nào. Vừa thương bà, vừa oán trách bản thân mình. Anh cảm thấy thương cả những đau khổ, nhọc bà phải gánh chịu. Bà là người hùng của cuộc đời cháu, là người đã có công nuôi dưỡng cháu nên người và cũng là người cháu không bao giờ quên trong cuộc đời này.
Nguyễn Duy viết về bà với tất cả lòng kính trọng và yêu thương sâu sắc. Bà đã mất nhưng hình ảnh người bà mạnh mẽ, hết lòng yêu thương cháu vẫn còn mãi.
3. Phân tích hình ảnh người bà trong bài Đò Lèn của Nguyễn Duy ý nghĩa nhất:
Hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm, luôn làm mọi thứ để cháu được sống trọn vẹn nhất được tác giả Nguyễn Duy khắc họa rõ nét trong tác phẩm “Đò lèn”. Hình ảnh người bà trong tác phẩm này là một hình mẫu lý tưởng, đó là một hình mẫu đẹp trong mắt tác giả, một người bà luôn hy sinh, chịu đựng gian khổ, vật lộn với khó khăn cuộc đời để kiếm sống:
Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
Bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
Bà đi gánh chè xanh Ba Trạ
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn
Bà cực khổ, kiếm sống hằng ngày, đi bán hàng kiếm tiền mưu sinh, đi bắt cua, đi bán chè, đi bán cháo trong đêm vừa lạnh vừa buốt, tất cả những điều đó đã thể hiện sự hy sinh hết lòng chỉ mong sao cháu của bà có cuộc sống tốt hơn. Tuổi thơ của tác giả vô tư, không lo lắng về những vất vả, hy sinh của bà, nên khi lớn lên, khi hiểu hết tất cả nỗi lo toan, cực khổ của bà trong quá khứ, tác giả đã choáng ngợp trước sự hi sinh đó và thấu hiểu sâu sắc tình yêu thương của bà dành cho mình.
Bà không phải làm một công việc mà là nhiều công việc để kiếm sống, để chăm lo cho cuộc sống của cháu, chính vì vậy nỗi khổ, sự vất vả của bà dường như tăng lên gấp nhiều lần. Giờ đây, đứa cháu khi đã lớn khôn đã hiểu được nỗi vất vả của người bà, biết yêu thương bà nhiều hơn, biết giành tất cả tinh yêu thương, trân trọng trước hình ảnh của người bà, những tình cảm đó thật chân thành, nồng nàn và yêu thương.
Sự hy sinh đó chỉ mong muốn cháu mình có cuộc sống tốt đẹp hơn. Tác giả đã rất thành công trong việc xây dựng hình ảnh người bà, người luôn hết lòng vì cháu. Đây có thể là một hình tượng được tác giả Nguyễn Duy xây dựng thành công trong tác phẩm của ông, thông qua đó đã gợi lên những hình ảnh tuy bình dị nhưng thân thương đầy xúc động.
Trong tác phẩm, ngoài việc miêu tả hình ảnh người bà qua những chi tiết lao động vất vả, tác giả còn miêu tả công việc, miêu tả hành động, hơn thế nữa, khi bà đã về già, tác giả còn tiếc nuối thời gian đã qua, bởi giây phút này, người bà không còn nữa, chỉ còn là nấm mồ.
Tác giả đã thổi hồn vào từng câu chữ để tăng giá trị biểu cảm cho toàn bộ tác phẩm, hình tượng người bà mà Nguyễn Duy xây dựng là đại diện cho một hình mẫu đẹp, giúp tăng lên giá trị biểu đạt trong tác phẩm “Đò lèn”. Qua đó ta thấy được sự hi sinh vô bờ bến của người bà giành cho đứa cháu và tình cảm của cháu giành cho bà.