Khi xâm phạm tới tài sản của người khác thì phải bồi thường. Vậy người bán có phải bồi thường khi tài sản bán bị mất không?
Mục lục bài viết
1. Tài sản bán chưa chuyển giao cho người mua:
1.1. Tài sản bán chưa chuyển giao cho người mua có phải bồi thường khi tài sản bán bị mất không?
Điều 161 Bộ luật Dân sự 2015 quy định thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, luật khác có liên quan; trường hợp luật mà không có quy định thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên; trong trường hợp luật không quy định và các bên cũng không có thỏa thuận thì thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản chính là thời điểm tài sản được chuyển giao. Thời điểm tài sản được chuyển giao chính là thời điểm bên có quyền hoặc người đại diện hợp pháp của họ chiếm hữu tài sản. Theo đó, trong giao dịch mua bán tài sản, khi người bán và người mua chưa thực hiện việc giao nhận tài sản thì tài sản bán vẫn thuộc quyền sở hữu của người bán (trừ trường hợp pháp luật có quy định về xác lập quyền sở hữu, các bên đã có thỏa thuận khác về thời điểm xác lập quyền sở hữu).
Điều 434 Bộ luật Dân sự 2015 quy định thời hạn thực hiện hợp đồng mua bán sẽ do các bên thoả thuận. Bên bán phải giao tài sản cho bên mua theo đúng thời hạn đã thoả thuận; bên bán sẽ chỉ được giao tài sản trước hoặc sau thời hạn nếu như được bên mua đồng ý. Thêm nữa, Điều 437 Bộ luật Dân sự 2015 cũng quy định trong trường hợp bên bán giao ít hơn số lượng đã thoả thuận thì bên mua hoàn toàn có quyền nhận phần đã giao và yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu việc vi phạm khiến cho bên mua không đạt được mục đích giao kết hợp đồng. Theo đó, tại thời điểm bên bán giao tài sản cho bên mua thì bên bán phải giao đủ số lượng tài sản mà hai bên đã thỏa thuận (ngoài ra bên bán còn phải giao vật đồng bộ, chủng loại nếu có), nếu như không giao đủ số lượng tài sản (hoặc không giao tài sản) thì bên bán phải bồi thường thiệt hại nếu bên mua có yêu cầu.
Như vậy, qua các phân tích trên, khẳng định được rằng nếu tài sản bán chưa chuyển giao cho người mua mà bị mất dẫn đến tại thời hạn giao tài sản cho bên mua nhưng không có tài sản để giao (hoặc do tài sản bị mất mà thời hạn giao tài sản bên bán không thể giao đúng số lượng, vật đồng bộ, chủng loại) do tài sản đã bị mất thì người bán phải bồi thường thiệt hại cho người mua nếu người mua có yêu cầu.
1.2. Những thiệt hại được bồi thường mà bên mua có thể yêu cầu bên bán bồi thường:
Thiệt hại được bồi thường mà bên mua có thể yêu cầu bên bán bồi thường bao gồm:
– Bên mua có quyền yêu cầu bên bán bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp các bên đã có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
– Bên mua có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà lẽ ra mình sẽ được hưởng do chính hợp đồng mang lại. Bên mua còn có thể yêu cầu người bán phải chi trả chi phí phát sinh do không hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng (không giao tài sản do tài sản bị mất trước hoặc tại thời hạn giao tài sản) mà không trùng lặp với mức bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà hợp đồng mang lại.
– Ngoài ra, theo yêu cầu của người mua, Tòa án có thể buộc người bán phải bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người mua. Mức bồi thường do Tòa án quyết định căn cứ vào nội dung vụ việc.
2. Tài sản bán đã chuyển giao cho người mua:
2.1. Tài sản bán đã chuyển giao cho người mua có phải bồi thường khi tài sản bán bị mất:
Như đã nêu ở phần trên, trong giao dịch mua bán tài sản, khi người bán và người mua chưa thực hiện việc giao nhận tài sản thì tài sản bán vẫn thuộc quyền sở hữu của người bán. Ngược lại, nếu như người bán đã giao tài sản cho người mua và người mua đã nhận tài sản thì tài sản đó được xác lập quyền sở hữu tài sản cho người mua kể từ thời điểm bên mua nhận tài sản (trừ trường hợp pháp luật có quy định về xác lập quyền sở hữu, các bên đã có thỏa thuận khác về thời điểm xác lập quyền sở hữu). Theo đó, tài sản thuộc sở hữu của bên mua kể từ thời điểm bên mua nhận tài sản.
Khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015 quy định người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của những người khác mà gây ra thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật Dân sự, luật khác có liên quan quy định khác. Có thể hiểu, trong trường hợp này, nếu như người bán làm mất tài sản bán khi tài sản bán đã thuộc quyền sở hữu của người mua thì phải bồi thường nếu gây thiệt hại.
2.2. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi người bán làm mất tài sản bán:
Điều 2 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 584 của Bộ luật Dân sự 2015, theo Điều này, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi người bán làm mất tài sản bán trong trường hợp tài sản bán đã thuộc quyền sở hữu của bên mua bao gồm đầy đủ các yếu tố sau:
– Có hành vi xâm phạm tài sản của người mua:
+ Có thiệt hại xảy ra là thiệt hại về vật chất, thiệt hại về tinh thần:
++ Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác định được của chủ thể bị xâm phạm, bao gồm có tổn thất về tài sản mà không khắc phục được; các chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại; khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút do tài sản và lợi ích hợp pháp khác bị xâm phạm.
++ Thiệt hại về tinh thần là tổn thất tinh thần do bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, những quyền và lợi ích nhân thân khác mà chủ thể bị xâm phạm hoặc là người thân thích của họ phải chịu và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất đó.
+ Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi xâm phạm. Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi xâm phạm và ngược lại hành vi xâm phạm là nguyên nhân gây ra thiệt hại.
– Ở trường hợp này, người bán sẽ không phải bồi thường thiệt hại chỉ khi thiệt hại phát sinh là do các sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại (bên mua tài sản), trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan mà không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù cũng đã áp dụng mọi các biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Lỗi hoàn toàn do người bị thiệt hại là toàn bộ các thiệt hại xảy ra đều do lỗi của người bị thiệt hại, người gây thiệt hại không có lỗi.
– Nguyên tắc bồi thường thiệt hại khi người bán làm mất tài sản bán trong trường hợp tài sản bán đã thuộc quyền sở hữu của bên mua: Căn cứ Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015, Điều 3 của Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP quy định những nguyên tắc khi bồi thường thiệt hại, theo Điều này thì nguyên tắc bồi thường thiệt hại khi người bán làm mất tài sản bán trong trường hợp tài sản bán đã thuộc quyền sở hữu của bên mua như sau:
– Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Điều 3 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP quy định rõ:
+ “Thiệt hại thực tế” là thiệt hại đã xảy ra. Bao gồm có thiệt hại về vật chất, thiệt hại về tinh thần (như đã nêu ở trên) được tính thành tiền tại thời điểm giải quyết bồi thường. Thiệt hại phát sinh tại sau thời điểm giải quyết bồi thường lần đầu sẽ được xác định tại thời điểm giải quyết bồi thường lần tiếp theo nếu có yêu cầu của người bị thiệt hại.
+ “Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ” là tất cả các thiệt hại thực tế xảy ra đều phải được bồi thường.
+ “Thiệt hại phải được bồi thường kịp thời” là thiệt hại phải được bồi thường nhanh chóng nhằm để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại.
Lưu ý rằng:
– Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có thể áp dụng một hoặc một số các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự để giải quyết yêu cầu cấp bách của người bị thiệt hại
– Người yêu cầu bồi thường thiệt hại phải nêu rõ từng khoản thiệt hại thực tế đã xảy ra, mức yêu cầu bồi thường và những tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ. Trong trường hợp người yêu cầu bồi thường thiệt hại không thể tự mình thu thập được các tài liệu, chứng cứ thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định của pháp luật.
– Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu như không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình. Thiệt hại mà quá lớn so với khả năng kinh tế của người chịu trách nhiệm bồi thường chính là trường hợp có căn cứ chứng minh rằng nếu như Tòa án tuyên buộc bồi thường toàn bộ thiệt hại thì không có điều kiện thi hành án.
– Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc là bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi về mức bồi thường. Mức bồi thường thiệt hại mà không còn phù hợp với thực tế, có nghĩa là do có sự thay đổi về tình hình kinh tế – xã hội; về sự biến động về giá cả; về sự thay đổi về tình trạng thương tật, khả năng lao động của người bị thiệt hại; sự thay đổi về khả năng kinh tế của những người có trách nhiệm bồi thường mà mức bồi thường không còn phù hợp với sự thay đổi đó.
– Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
– Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu như thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự 2015;
– Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP quy định những nguyên tắc khi bồi thường thiệt hại.