Khi toà án tuyên xử phạt tù không quá 03 năm thì căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và những tình tiết giảm nhẹ khác được pháp luật quy định, nếu xét thấy người phạm tội không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và sẽ ấn định thời gian thử thách theo quy định của pháp luật. Vậy việc rút ngắn thời gian thử thách án treo được pháp luật quy định như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Quy định về việc rút ngắn thời gian thử thách án treo:
Thời gian thử thách chính là thời gian cần thiết để cho những người được hưởng án treo chứng tỏ về sự tự cải tạo của mình trong điều kiện mà không bị cách li khỏi đời sống xã hội và được Toà án ấn định.
Thời gian thử thách cũng chính là thời gian người bị án treo được giao cho các cơ quan nhà nước hoặc cho các tổ chức xã hội nơi mà người đó làm việc hoặc thường trú để thực hiện theo dõi, giáo dục. Đó là ràng buộc pháp lý đối với những người bị án và để các cơ quan có trách nhiệm kiểm tra về kết quả sự tự cải tạo của người này. Đây là khoảng thời gian để khẳng định điều kiện “không phạm tội mới có thỏa mãn hay là không để tiến hành cho phép được miễn chấp hành hình phạt tù hay người phạm tội buộc phải chấp hành hình phạt đã được tuyên đó. Cụ thể là người được hưởng án treo sẽ chỉ được miễn chấp hành hình phạt tù nếu như trong thời gian thử thách người đó không phạm tội mới, ngược lại, họ sẽ phải chấp hành hình phạt tù nếu như họ phạm tội mới trong thời gian này.
1.1. Điều kiện rút ngắn thời gian thử thách án treo:
Vì một số lý do nhất định mà người đang trong thời gian thử thách án treo có mong muốn rút ngắn thời gian thử thách án treo của mình. Người muốn rút ngắn thời gian thử thách án treo phải được Tòa án nhân dân cấp huyện hoặc Tòa án quân sự khu vực ra quyết định rút ngắn thời gian thử thách của án treo khi mà họ có đủ các điều kiện sau:
– Họ đã chấp hành được ít nhất là một phần hai thời gian thử thách của án treo;
– Họ đã có nhiều tiến bộ mà được thể hiện bằng việc là trong thời gian thử thách họ đã chấp hành nghiêm pháp luật, những nghĩa vụ theo Luật Thi hành án hình sự; họ tích cực học tập, lao động, sửa chữa các lỗi lầm của mình hoặc lập được các thành tích trong lao động sản xuất, trong bảo vệ an ninh Tổ quốc đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền trao khen thưởng.
– Họ được Ủy ban nhân dân cấp xã, các cơ quan, tổ chức được giao việc giám sát, giáo dục họ đưa đề nghị rút ngắn thời gian thử thách bằng văn bản.
Ngoài ra, nếu như người được hưởng án treo mà lập công hoặc họ mắc các bệnh hiểm nghèo đồng thời họ có đủ các điều kiện đã nêu trên thì Tòa án có thể ra quyết định rút ngắn thời gian thử thách còn lại của họ. Lập công, mắc bệnh hiểm nghèo được hiểu như sau:
– Lập công: là trường hợp những người được hưởng án treo có:
+ Họ có những hành động giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện ra, truy bắt, điều tra các tội phạm;
+ Họ cứu được người khác mà đang lâm vào trong tình thế hiểm nghèo hoặc họ cứu được tài sản mà có giá trị trên 50 triệu đồng của nhà nước, của tập thể, của công dân trong thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, tai nạn;
+ Họ có sáng kiến mà được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận hoặc họ có các thành tích xuất sắc trong lao động, trong học tập, chiến đấu, trong công tác mà được cơ quan nhà nước có thẩm quyền trao khen thưởng, xác nhận.
– Mắc bệnh hiểm nghèo: là những trường hợp mà bệnh viện cấp tỉnh, hay bệnh viện quân đội cấp quân khu trở lên đã có kết luận là những người được hưởng án treo họ đang bị bệnh nguy hiểm đến tính mạng mà khó có các phương thức chữa trị, như:
+ Bệnh ung thư giai đoạn cuối;
+ Bệnh xơ gan cổ trướng;
+ Bệnh lao nặng độ 4 kháng thuốc;
+ Bệnh bại liệt;
+ Bệnh suy tim độ 3;
+ Bệnh suy thận độ 4 trở lên;
+ Bệnh HIV giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội mà không có khả năng tự chăm sóc bản thân và có nguy cơ tử vong cao.
1.2. Mức rút ngắn thời gian thử thách án treo:
Mỗi năm thì người được hưởng án treo họ chỉ được rút ngắn thời gian thử thách của mình một lần từ 01 tháng đến 01 năm.
Người được hưởng án treo sẽ có thể được rút ngắn thời gian thử thách của mình nhiều lần, nhưng họ phải bảo đảm trên thực tế họ chấp hành thời gian thử thách của mình là ba phần tư thời gian thử thách Tòa án đã tuyên.
2. Quy định về thời gian thử thách:
2.1. Ấn định thời gian thử thách:
Thời gian thử thách của người phạm tội được hưởng án treo sẽ được toà án ấn định theo nguyên tắc là:
Thời gian thử thách = 2 x mức hình phạt tù (nhưng không được dưới 01 năm và không được 05 năm).
Đối với người bị kết án nhưng cho hưởng án treo mà họ đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian mà họ đã bị tạm giữ, tạm giam sẽ không được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù để ấn định về thời gian thử thách.
Ví dụ: Anh Nguyễn Văn A đã bị Toà án nhân dân huyện X tuyên bản án sơ thẩm là 09 tháng tù nhưng được hưởng án treo. Như vậy, thời gian thử thách của anh A được tính theo nguyên tắc trên là 18 tháng
2.2. Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách:
Thời điểm bắt đầu để tính thời gian thử thách sẽ được xác định dựa theo từng trường hợp, cụ thể như sau:
– TH1: Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo mà bản án không bị kháng cáo hay kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì thời điểm để bắt đầu tính thời gian thử thách chính là ngày tuyên án sơ thẩm.
– TH2: Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo mà Tòa án cấp phúc thẩm cũng cho người phạm tội hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu để tính thời gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm.
– TH3: Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo nhưng Tòa án cấp phúc thẩm cho người phạm tội hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu để tính thời gian thử thách là ngày tuyên án phúc thẩm.
– TH4: Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo nhưng Tòa án cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo, tuy nhiên Hội đồng giám đốc thẩm đã tuyên hủy bản án phúc thẩm để tiến hành xét xử phúc thẩm lại và Tòa án cấp phúc thẩm đã cho người phạm tội hưởng án treo thì thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
– TH5: Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đều cho hưởng án treo, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm đã tuyên hủy bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm để tiến hành điều tra hoặc xét xử lại và sau khi đã tiến hành xét xử sơ thẩm lại, xét xử phúc thẩm lại mà Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm cũng vẫn cho người phạm tội hưởng án treo thì thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên án sơ thẩm hoặc tuyên án phúc thẩm lần đầu.
– TH6: Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm không cho người phạm tội hưởng án treo, bản án không bị kháng cáo, bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm đã tiến hành sửa bản án sơ thẩm cho người phạm tội hưởng án treo thì thời gian thử thách được tính từ ngày quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực.
– TH7: Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đều không cho hưởng án treo, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm đã tiến hành sửa bản án phúc thẩm cho người phạm tội hưởng án treo thì thời gian thử thách được tính từ ngày quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực.
– TH8: Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo nhưng Tòa án cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo, tuy nhiên Hội đồng giám đốc thẩm đã tiến hành hủy bản án phúc thẩm, giữ nguyên bản án sơ thẩm hoặc là Hội đồng giám đốc thẩm đã tiến hành sửa bản án phúc thẩm cho người phạm tội hưởng án treo, thì thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
– TH9: Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm đã cho hưởng án treo nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại hủy bản án sơ thẩm để tiến hành điều tra hoặc xét xử lại và sau khi đã xét xử sơ thẩm lại, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn quyết định cho hưởng án treo thì thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên án sơ thẩm lần sau.
3. Mục đích của quy định rút ngắn thời gian thử thách án treo:
Việc nhà nước ta đã đưa ra những quy định về rút ngắn thời gian thử thách án treo phần lớn đã thể hiện được tính nhân đạo của pháp luật đối với những người “lầm đường lạc lối”, đồng thời cũng nhằm các mục đích sau:
– Nhằm khuyến khích những người được hưởng án treo tự giác phấn đấu, tích cực học tập, tích cực lao động, chấp hành nghiêm chỉnh theo bản án, quyết định thi hành án và các nghĩa vụ của người hưởng án treo;
– Nhằm bảo đảm về chính sách khoan hồng, nhân đạo và bảo đảm được các quyền và lợi ích hợp pháp của người được hưởng án treo.
Các văn bản pháp luật sử dụng trong bài viết:
– Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017;
– Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự về án treo.