Cam kết hay cam đoan là chịu theo những điều kiện giao ước, cam kết thực hiện đầy đủ nghĩa vụ. Có nhiều thuật ngữ được sử dụng xoay quanh vấn đề này. Cam kết ngoại bảng thực chất là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong hoạt động tín dụng tại các ngân hàng.
Mục lục bài viết
1. Cam kết ngoại bảng là gì?
Cam kết ngoại bảng được biết đến là thuật ngữ được dùng nhằm muc đích chính là để chỉ các khoản như cam kết thanh toán, trả nợ, cấp tín dụng… hay các hợp đồng phát sinh tỷ giá của ngân hàng với khách hàng trong tương lai nằm ngoài bảng cân đối kế toán.
Do chỉ là cam kết mà không thực hiện ngay nên các khoản này chỉ được ghi nhận ở ngoại bảng (off-balance sheet) mà không được ghi nhận ở nội bảng (balance sheet).
Trong hoạt động tín dụng tại các ngân hàng thương mại, các chỉ tiêu ngoại bảng được chia thành:
– Nghĩa vụ nợ tiềm ẩn: Theo đánh giá của các chuyên gia, đây là rủi ro tiềm tàng nhất trong hoạt động ngân hàng. Chủ yếu đến từ các cam kết bảo lãnh vay vốn (vay thấu chi), cam kết trong nghiệp vụ L/C và cam kết bảo lãnh khác (bảo lãnh thanh toán, thực hiện hợp đồng, dự thầu…).
Cam kết ngoại bảng trong tiếng Anh là: Off-balance sheet commitment.
2. Quy định về cam kết ngoại bảng trong hoạt động tín dụng:
Căn cứ pháp lý: Thông tư số 24/2013/TT-NHNN Quy định về phân loại tài sản có và cam kết ngoại bảng của ngân hàng phát triển Việt Nam.
Phương pháp và nguyên tắc phân loại cam kết ngoại bảng:
Đối với việc phân loại cam kết ngoại bảng, các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cần thực hiện việc phân loại theo nguyên tắc sau đây:
– Đối với việc phân loại cam kết ngoại bảng, các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cần phải sử dụng kết quả phân loại nhóm nợ đối với khách hàng do Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) cung cấp tại thời điểm phân loại để điều chỉnh kết quả tự phân loại nợ, cam kết ngoại bảng.
– Toàn bộ số dư nợ và giá trị các cam kết ngoại bảng của một khách hàng phải được phân loại vào cùng một nhóm nợ có mức độ rủi ro cao nhất mà một khoản nợ hoặc cam kết ngoại bảng của khách hàng đó đang được phân loại.
Thời điểm phân loại cam kết ngoại bảng:
Điều 6 Thông tư số 24/2013/TT-NHNN đã quy định rõ về thời điểm phân loại nợ, cam kết ngoại bảng như sau:
– Ít nhất mỗi quý một lần, trong 15 ngày đầu tiên của tháng đầu tiên của mỗi quý, Ngân hàng Phát triển Việt Nam thực hiện phân loại nợ, cam kết ngoại bảng đến thời điểm cuối ngày làm việc cuối cùng của quý trước theo quy định tại Thông tư này.
Riêng đối với quý cuối cùng của kỳ kế toán năm, trong 15 ngày làm việc đầu tiên của tháng cuối cùng, Ngân hàng Phát triển Việt Nam thực hiện phân loại nợ, cam kết ngoại bảng đến thời điểm cuối ngày làm việc cuối cùng của tháng thứ hai quý cuối cùng của kỳ kế toán.
– Ngoài thời điểm quy định trên, Ngân hàng Phát triển Việt Nam thực hiện phân loại nợ, cam kết ngoại bảng theo quy định nội bộ.
Phân loại cam kết ngoại bảng:
– Phân loại vào nhóm 1 nếu tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá khách hàng có khả năng thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo cam kết.
– Phân loại vào nhóm 2 trở lên nếu tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá khách hàng không có khả năng thực hiện các nghĩa vụ theo cam kết.
– Phân loại vào nhóm 3 trở lên đối với cam kết ngoại bảng thuộc một trong các trường hợp thuộc nhóm nợ dưới tiêu chuẩn.
Phân loại khoản trả thay theo cam kết ngoại bảng:
– Ngày quá hạn được tính từ ngày tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện nghĩa vụ theo cam kết.
– Khoản trả thay theo cam kết ngoại bảng được phân loại cụ thể như sau:
+ Phân loại vào nhóm 3 nếu quá hạn dưới 30 ngày.
+ Phân loại vào nhóm 4 nếu quá hạn từ 30 ngày đến dưới 90 ngày.
+ Phân loại vào nhóm 5 nếu quá hạn từ 90 ngày trở lên.
– Ngoài ra, nếu thưc hiện phân loại theo phương pháp định tính, cam kết ngoại bảng được phân thành các nhóm cụ thể như sau:
+ Nhóm 1: Các cam kết ngoại bảng được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là khách hàng có khả năng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo cam kết.
+ Nhóm 2: Các cam kết ngoại bảng được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là khách hàng có khả năng thực hiện nghĩa vụ theo cam kết nhưng có dấu hiệu suy giảm khả năng thực hiện cam kết.
+ Nhóm 3: Các cam kết ngoại bảng được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là khách hàng không có khả năng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo cam kết.
+ Nhóm 4: Các cam kết ngoại bảng mà khả năng khách hàng không thực hiện cam kết là rất cao.
+ Nhóm 5: Các cam kết ngoại bảng mà khách hàng không còn khả năng thực hiện nghĩa vụ cam kết.
3. Hoạt động ngoại bảng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam:
Tại Việt Nam, các hoạt động ngoại bảng của ngân hàng chỉ yếu là các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối, phái sinh và các cam kết bảo lãnh vay vốn (vay thấu chi), cam kết trong nghiệp vụ L/C và cam kết bảo lãnh khác như bảo lãnh thanh toán… Các chủ thể là những chuyên gia đánh giá rằng, những hoạt động ngoại bảng này thực tế sẽ mang đến nhiều rủi ro cho ngân hàng.
Những năm vừa qua đã cho thấy, ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, hoạt động ngân hàng có nhiều ảnh hưởng, trong đó đáng chú ý là tỷ lệ nợ xấu vẫn có xu hướng tăng. Đáng nói, rủi ro lớn nhất đối với các ngân hàng không chỉ nằm ở số nợ xấu có thể nhìn thấy trên
Ngân hàng Quân đội (MB):
Thống kê được ban hành đã cho thấy, quý 3/2020, nghĩa vụ nợ tiềm ẩn nằm ở ngoại bảng của ngân hàng Quân đội MB là 366.733 tỷ đồng (tăng hơn 26,8% so với cùng kỳ năm ngoái). Các khoản mục cam kết khác tăng từ hơn 35.000 tỷ đồng lên gần 65.000 tỷ đồng. Đáng chú ý, các khoản phải thu của ngân hàng Quân đội MB cũng hàm chứa các yếu tố rủi ro trong tương lai. Cụ thể, tổng số các khoản phải thu tăng từ gần 9.000 tỷ đồng lên 12.513 tỷ đồng, trong đó cụ thể như sau:
– Khoản phải thu liên quan đến dịch vụ thanh toán từ 2.364 tỷ đồng lên 3.748 tỉ đồng.
– Phải thu tài trợ thương mại 2.924 tỷ đồng tăng lên 4.731 tỷ đồng.
– Các khoản phải thu khác từ hơn 952 tỷ đồng tăng lên 1.641 tỷ đồng.
Những khoản này nếu không thu được trong tương lai sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến lợi nhuận của MBbank.
Ngân hàng VPbank:
Theo
Theo quy định hiện nay đối với các cam kết ngoại bảng, các ngân hàng thương mại cũng chỉ thực hiện phân loại nợ để nhằm mục đích chính đó là để có thể quản lý, giám sát chất lượng tín dụng, không thực hiện trích lập dự phòng rủi ro. Ngân hàng chỉ phải trích lập dự phòng khi rủi ro xảy ra. Như vậy, điều này sẽ càng làm gia tăng các rủi ro tiềm ẩn trong tương lai và ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, lợi nhuận của các ngân hàng.
Thống kê của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tính từ năm 2012 đến cuối tháng 7/2020, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng ước tính đã xử lý được hơn 1,1 triệu tỷ đồng nợ xấu. Nhưng tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu của hệ thống tổ chức tín dụng đến tháng 7/2020 vẫn ở mức 4,47% và con số này ước tính vẫn sẽ còn tăng cao và sẽ có những ảnh hưởng trực tiếp tới các tổ chức tín dụng.
Trên đây là các thông tin về cam kết ngoại bảng, các chủ thể có thể nắm rõ để hiểu về các dịch vụ này trong hoạt động kinh doanh tại các ngân hàng thương mại hiện nay.