Căn cứ xác định việc sử dụng đất ổn định. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Căn cứ xác định việc sử dụng đất ổn định. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Tóm tắt câu hỏi:
Kính chào Luật sư! Năm 1993, ba mẹ tôi được Hội đồng đất đai xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vườn (có nhà ở) và đất ruộng. Ba mẹ tôi sử dụng không có tranh chấp và canh tác ổn định đến nay. Đến năm 1997 bà nội tôi mất, đến 2012 ông nội tôi mất thì các cô chú tôi tranh chấp đòi chia ruộng vườn mà ba mẹ tôi đang đứng tên vì cho rằng ruộng vườn này là của ông nội tôi chết để lại. Nguồn gốc tôi được biết: Khu đất vườn này và ruộng là của cụ tôi chết để lại (không di chúc) được anh em ông nội giao lại cho ông nội tôi khi trở về từ sài gòn (năm 1975) quản lý và sử dụng, sau đó ông nội về lại Sài Gòn và giao lại cho ba mẹ tôi ở và canh tác từ 1977 cho đến nay. Về pháp lý ông nội tôi có đứng tên kê khai năm 1980 theo chỉ thị 299/Thủ Tướng (do ba tôi khai). Luật sư tư vấn giúp trường hợp này ba bẹ tôi có phải chia đều ruộng vườn cho các cô chú tôi không? Sổ đỏ đã cấp năm 1993 cho ba mẹ tôi có được xem thuộc quyền sử dụng riêng của ba mẹ tôi không? Rất mong hồi đáp của Luật sư. Tôi chân thành biết ơn!
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Theo như bạn trình bày, khi cụ của bạn mất không có di chúc nhưng anh em của ông nội bạn đã thống nhất giao lại mảnh đất cho ông nội bạn và không có tranh chấp thì ông nội bạn là người thừa kế hợp pháp mảnh đất này.
Bên cạnh đó, Ông bà bạn đã cho ba mẹ bạn mảnh đất và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp cho ba mẹ bạn trong lúc ông nội bạn còn sống theo đúng trình tự quy định của pháp luật về đất đai mà lúc đó không có tranh chấp gì tức là ba mẹ bạn đã được pháp luật công nhận quyền sở hữu đối với mảnh đất đó theo quy định tại Khoản 9 Điều 3 Luật đất đai 2013 như sau: "Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất ổn định mà không có nguồn gốc được Nhà nước giao đất, cho thuê đất thông qua việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu đối với thửa đất xác định."
Và theo căn cứ tại Điều 21 Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai quy định như sau:
"Điều 21. Căn cứ xác định việc sử dụng đất ổn định
1. Sử dụng đất ổn định là việc sử dụng đất liên tục vào một mục đích chính nhất định kể từ thời điểm bắt đầu sử dụng đất vào mục đích đó đến thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc đến thời điểm quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với trường hợp chưa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận).
2. Thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định được xác định căn cứ vào thời gian và nội dung có liên quan đến mục đích sử dụng đất ghi trên một trong các giấy tờ sau đây:
a) Biên lai nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất;
b) Biên bản hoặc quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong việc sử dụng đất, biên bản hoặc quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong việc xây dựng công trình gắn liền với đất;
c) Quyết định hoặc bản án của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực thi hành, quyết định thi hành bản án của cơ quan Thi hành án đã được thi hành về tài sản gắn liền với đất;
d) Quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực thi hành; biên bản hòa giải tranh chấp đất đai có chữ ký của các bên và xác nhận của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất;
đ) Quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có liên quan đến việc sử dụng đất;
e) Giấy tờ về đăng ký hộ khẩu thường trú, tạm trú dài hạn tại nhà ở gắn với đất ở; Giấy chứng minh nhân dân hoặc Giấy khai sinh, giấy tờ nộp tiền điện, nước và các khoản nộp khác có ghi địa chỉ nhà ở tại thửa đất đăng ký;
g) Giấy tờ về việc giao, phân, cấp nhà hoặc đất của cơ quan, tổ chức được Nhà nước giao quản lý, sử dụng đất;
h) Giấy tờ về mua bán nhà, tài sản khác gắn liền với đất hoặc giấy tờ về mua bán đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên liên quan;
i) Bản đồ, sổ mục kê, tài liệu điều tra, đo đạc về đất đai qua các thời kỳ;
k) Bản kê khai đăng ký nhà, đất có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã tại thời điểm kê khai đăng ký.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
3. Trường hợp thời điểm sử dụng đất thể hiện trên các loại giấy tờ quy định tại Khoản 2 Điều này có sự không thống nhất thì thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định được xác định theo giấy tờ có ghi ngày tháng năm sử dụng đất sớm nhất.
4. Trường hợp không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Khoản 2 Điều này hoặc trên giấy tờ đó không ghi rõ thời điểm xác lập giấy tờ và mục đích sử dụng đất thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về thời điểm bắt đầu sử dụng đất và mục đích sử dụng đất trên cơ sở thu thập ý kiến của những người đã từng cư trú cùng thời điểm bắt đầu sử dụng đất của người có yêu cầu xác nhận trong khu dân cư (thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố) nơi có đất."
Nếu ba mẹ bạn có đủ các giấy tờ tài liệu để chứng minh mảnh đất đó gia đình bạn đã ở và sử dụng ổn định trong suốt khoảng thời gian từ năm 1993 đến nay thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ba mẹ bạn là hợp pháp và ba mẹ bạn không cần phải chia đều ruộng vườn cho các cô chú của bạn.