Quyền nhân thân trong mối quan hệ với yếu tố lịch sử. Quy định về các vấn đề nhân thân của cá nhân.
1. Cơ sở pháp lý:
– Hiến pháp 1992.
2. Luật sư tư vấn:
Con người là một thực thể tự nhiên- xã hội. Xuất hiện, tồn tại, vận động và phát triển gắn với quá trình tiến hóa của lịch sử xã hội loài người, quyền con người, quyền nhân thân được coi là một hiện tượng lịch sử xã hội có quá trình phát triển lâu dài. Điều kiện xã hội ngày càng phát triển, quyền con người, quyền nhân thân của con người ngày càng được quan tâm.
Mục lục bài viết
- 1 Khái niệm Quyền nhân thân chưa được xây dựng một cách thống nhất, còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Ở Việt Nam, quyền nhân thân được quy định từ Điều 24 đến Điều 51 của Bộ Luật dân sự năm 2005. Điều 24 “Bộ luật dân sự năm 2015” đưa ra những quy định chung nhất về quyền nhân thân:
- 2 “Là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”
- 3 Qua quy định tại điều luật này chúng ta có thể định nghĩa về quyền nhân thân như sau:
- 4 Dưới góc độ lịch sử, trên thế giới, từ giữa thế kỷ IX đến thế kỷ VII trước công nguyên là giai đoạn sơ khai của quyền nhân thân. Đây là giai đoạn mà chế độ công xã thị tộc tan rã, chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời với sự thay thế phương thức sản xuất tiến bộ hơn rất nhiều, năng suất lao động chính vì thế đã cao hơn. Tiếp đó, chế độ phong kiến đã thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ, cũng chính từ lý do này mà tư tưởng tự do, nhân đạo đã có những biến chuyển nhất định. Trong bối cảnh lịch sử này, người nông dân đã chịu sự lệ thuộc về mặt tư liệu sản xuất (ruộng đất) và cũng đó cũng chính là sự lệ thuộc về mặt kinh tế đối với tầng lớp địa chủ. Mặc dù vậy, những tư tưởng sơ khai về quyền con người, quyền nhân thân đã được đưa ra bởi một số Nhà tư tưởng tiến bộ. Chẳng hạn, Protagora và một số nhà triết học thuộc trường phái nguỵ biện đã đưa ra quan niệm về sự bình đẳng giữa những người trong xã hội: “Thượng đế tạo ra mọi người, đều là người tự do, tự nhiên, không ai biến thành nô lệ cả”. Bước sang gia đoạn Phục hưng là thời kỳ hình thành phương thức sản xuất Tư bản Chủ nghĩa – bước khởi đầu cho lịch sử phát triển về tư tưởng văn hoá, cách mạng tư sản. Kinh tế là một trong những yếu tố mạnh mẽ nhất ảnh hưởng, tác động đến con người, trong đó có sự ảnh hưởng tới các quyền của con người. Xét dưới góc độ lịch sử, đây là giai đoạn có sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, khoa học kỹ thuật. Chính từ lý do này, con người đã có sự nhìn nhận lại chính mình, đưa con người vào vị trí trung tâm. Các quyền con người bị xã hội phong kiến chà đạp, bóp méo, phủ nhận đã được thừa nhận và có sự thay đổi 17 trong một diện mạo, khung cảnh mới. Một loạt các đạo luật của một số Nhà nước Tư sản ra đời đã khẳng định quyền con người và những quyền nhân thân dành cho họ như: Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Hiến pháp của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Tuyên ngôn nhân quyền và Dân quyền của Pháp, Hiến pháp của nước Cộng hoà Pháp… Tuy vậy, “giai cấp tư sản chỉ tập trung nhấn mạnh quyền dân sự, chính trị, coi nhẹ quyền kinh tế, văn hoá, xã hội là cơ sở và điều kiện quan trọng để người lao động thoát khỏi đói nghèo và bị bóc lột” . Đến đầu thế kỷ XIX, ở giai đoạn này, Chủ nghĩa Tư bản bắt đầu bộc lộ rõ bản chất phản động được che đậy trước đó (áp bức, bóc lột…). Không chịu khuất phục và lùi bước, các lực lượng dân chủ tiến bộ và các lực lượng tiền thân của giai cấp vô sản bắt đầu thức tỉnh, liên kết và bước vào một cuộc đấu tranh mới. Các nhà tư tưởng đã đưa ra những luận thuyết khác nhau nhằm hướng tới một xã hội tốt đẹp hơn – xã hội mà ở đó con người được hưởng tự do và công bằng hơn so với xã hội mà họ đang sống. Tuy nhiên, những luận thuyết này vẫn có nhược điểm là đánh giá sự vật không trong mối quan hệ biện chứng, không đặt sự vật hiện tượng trong mối liên hệ và phát triển. Mác và Anghen đã khắc phục những nhược điểm này, theo đó hai ông dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để cho ra đời một chủ nghĩa xã hội khoa học mà ở đó nhân quyền, tự do, dân chủ được hiện thực hoá đối với mọi tầng lớp nhân dân lao động. Chính Mác và Anghen đã khởi phát “đòi vấn đề nhân quyền và dân quyền” trong Tuyên ngôn Điều lệ tạm thời của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế năm 1864, Hiến chương và Điều lệ của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế năm 1886.
Khái niệm Quyền nhân thân chưa được xây dựng một cách thống nhất, còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Ở Việt Nam, quyền nhân thân được quy định từ Điều 24 đến Điều 51 của Bộ Luật dân sự năm 2005. Điều 24 “Bộ luật dân sự năm 2015” đưa ra những quy định chung nhất về quyền nhân thân:
“Là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”
Qua quy định tại điều luật này chúng ta có thể định nghĩa về quyền nhân thân như sau:
Theo nghĩa khách quan, Quyền nhân thân được hiểu là một phạm trù pháp lý bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, trong đó có nội dung quy định cho các cá nhân có các quyền nhân thân gắn liền với bản thân mình và đây là cơ sở để cá nhân thực hiện quyền của mình.
Theo nghĩa chủ quan, Quyền nhân thân là quyền dân sự chủ quan gắn liền với cá nhân do Nhà nước quy định cho mỗi cá nhân và cá nhân không thể chuyển giao quyền này cho người khác trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Dưới góc độ lịch sử, trên thế giới, từ giữa thế kỷ IX đến thế kỷ VII trước công nguyên là giai đoạn sơ khai của quyền nhân thân. Đây là giai đoạn mà chế độ công xã thị tộc tan rã, chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời với sự thay thế phương thức sản xuất tiến bộ hơn rất nhiều, năng suất lao động chính vì thế đã cao hơn. Tiếp đó, chế độ phong kiến đã thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ, cũng chính từ lý do này mà tư tưởng tự do, nhân đạo đã có những biến chuyển nhất định. Trong bối cảnh lịch sử này, người nông dân đã chịu sự lệ thuộc về mặt tư liệu sản xuất (ruộng đất) và cũng đó cũng chính là sự lệ thuộc về mặt kinh tế đối với tầng lớp địa chủ. Mặc dù vậy, những tư tưởng sơ khai về quyền con người, quyền nhân thân đã được đưa ra bởi một số Nhà tư tưởng tiến bộ. Chẳng hạn, Protagora và một số nhà triết học thuộc trường phái nguỵ biện đã đưa ra quan niệm về sự bình đẳng giữa những người trong xã hội: “Thượng đế tạo ra mọi người, đều là người tự do, tự nhiên, không ai biến thành nô lệ cả”. Bước sang gia đoạn Phục hưng là thời kỳ hình thành phương thức sản xuất Tư bản Chủ nghĩa – bước khởi đầu cho lịch sử phát triển về tư tưởng văn hoá, cách mạng tư sản. Kinh tế là một trong những yếu tố mạnh mẽ nhất ảnh hưởng, tác động đến con người, trong đó có sự ảnh hưởng tới các quyền của con người. Xét dưới góc độ lịch sử, đây là giai đoạn có sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, khoa học kỹ thuật. Chính từ lý do này, con người đã có sự nhìn nhận lại chính mình, đưa con người vào vị trí trung tâm. Các quyền con người bị xã hội phong kiến chà đạp, bóp méo, phủ nhận đã được thừa nhận và có sự thay đổi 17 trong một diện mạo, khung cảnh mới. Một loạt các đạo luật của một số Nhà nước Tư sản ra đời đã khẳng định quyền con người và những quyền nhân thân dành cho họ như: Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Hiến pháp của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Tuyên ngôn nhân quyền và Dân quyền của Pháp, Hiến pháp của nước Cộng hoà Pháp… Tuy vậy, “giai cấp tư sản chỉ tập trung nhấn mạnh quyền dân sự, chính trị, coi nhẹ quyền kinh tế, văn hoá, xã hội là cơ sở và điều kiện quan trọng để người lao động thoát khỏi đói nghèo và bị bóc lột” . Đến đầu thế kỷ XIX, ở giai đoạn này, Chủ nghĩa Tư bản bắt đầu bộc lộ rõ bản chất phản động được che đậy trước đó (áp bức, bóc lột…). Không chịu khuất phục và lùi bước, các lực lượng dân chủ tiến bộ và các lực lượng tiền thân của giai cấp vô sản bắt đầu thức tỉnh, liên kết và bước vào một cuộc đấu tranh mới. Các nhà tư tưởng đã đưa ra những luận thuyết khác nhau nhằm hướng tới một xã hội tốt đẹp hơn – xã hội mà ở đó con người được hưởng tự do và công bằng hơn so với xã hội mà họ đang sống. Tuy nhiên, những luận thuyết này vẫn có nhược điểm là đánh giá sự vật không trong mối quan hệ biện chứng, không đặt sự vật hiện tượng trong mối liên hệ và phát triển. Mác và Anghen đã khắc phục những nhược điểm này, theo đó hai ông dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để cho ra đời một chủ nghĩa xã hội khoa học mà ở đó nhân quyền, tự do, dân chủ được hiện thực hoá đối với mọi tầng lớp nhân dân lao động. Chính Mác và Anghen đã khởi phát “đòi vấn đề nhân quyền và dân quyền” trong Tuyên ngôn Điều lệ tạm thời của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế năm 1864, Hiến chương và Điều lệ của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế năm 1886.
Giai đoạn được bắt đầu từ sau Chiến tranh Thế giới II. Loài người đã thoát khỏi hiểm hoạ phát xít, các nước Xã hội Chủ nghĩa đã đi đầu trong việc nêu bật các quyền dân tộc cơ bản như một bộ phận thiết yếu của các quyền tập thể, đưa ra cách đề cập toàn diện và biện chứng hơn về nhân quyền. Cùng với sự phát triển 18 kinh tế – xã hội của loài người, nội dung các quyền con người tiếp tục phát triển.Bên cạnh đó, nhu cầu thành lập một tổ chức quốc tế rộng lớn nhằm ngăn ngừa thảm hoạ xảy ra và bảo vệ quyền con người là hết sức cần thiết. Trong bối cảnh đó, Liên Hiệp Quốc đã ra đời vào ngày 24 tháng 10 năm 1945, Hiến chương Liên Hiệp Quốc cũng đã được thông qua. Quyền con người đã trở thành một quy tắc chính thức đặt trên nền tảng của Hiến chương Liên Hiệp Quốc và luật pháp quốc tế. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua vào ngày 10 tháng 12 năm 1948. Các quyền của con người được ghi nhận, trong đó có nhiều quyền nhân thân. Điều 12 của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người quy định:
“Không ai phải chịu sự can thiệp vô cớ đến đời tư, gia đình, nhà cửa hoặc thư tín, cũng như sự xúc phạm đến danh dự hoặc uy tín cá nhân. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự can thiệp và xâm phạm như vậy.”.
Tiếp đó, từ năm 1948 đến năm 1965, Liên Hiệp Quốc đã thông qua nhiều Hiệp ước và Nghị định thư về nhân quyền. Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá và Công ước về các quyền dân sự và chính trị – hai công ước quan trọng nhất đã được Liên Hiệp Quốc thông qua vào năm 1966.
Như vậy, có thể nói vấn đề quyền con người nói chung, quyền nhân thân nói riêng đã được ghi nhận và phát triển không chỉ trên phương diện quốc gia mà cả trên phương diện quốc tế. Trên cơ sở ghi nhận quyền nhân thân, các quốc gia đã có những biện pháp, cơ chế hữu hiệu để đảm bảo thực hiện các quyền này cho con người, vì con người nhằm hướng mục tiêu đảm bảo”
“Tất cả mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và các quyền. Họ được phú cho lý trí, lương tri và 19 cần đối xử với nhau trong tinh thần anh em” (Điều 1, Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người).
Ở Việt Nam, sự phát triển trong các quy định của pháp luật về quyền nhân thân thể hiện qua các bản Hiến pháp. Một trong những đặc trưng rất quan trọng của quyền con người, quyền nhân thân đó được đảm bảo bởi Nhà nước và pháp luật. Nhà nước và pháp luật là công cụ và phương tiện bảo vệ quyền nhân thân của con người. Thông qua việc ban hành các quy định pháp luật Nhà nước quy định các quyền của công dân trong đó có quyền nhân thân. Quyền công dân tạo lên địa vị pháp lý của công dân trong xã hội. thể hiện mối quan hệ về mặt pháp lý giữa một cá nhân và một quốc gia. Mối liên hệ này sẽ ràng buộc hành vi của công dân vào hệ thống pháp luật quốc giai đầu tiên là Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác trong đó đặc biệt là có Bộ luật dân sự. Hiến pháp là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc của một quốc gia, là cơ sở hình thành hệ thống pháp luật và xây dựng các văn bản pháp luật khác. Căn cứ vào quy định của Hiến pháp các ngành luật cụ thể hóa bằng các quy định để tác động tới các quan hệ mà nó có nhiệm vụ điều chỉnh. Đối với luật dân sự nói chung và các quy đinh về quyền nhân thân trong Bộ luật dân sự, Hiến pháp quy định một các rất khái quát về quyền nhân thân. Hiến pháp năm 1992 quy định những nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở giai đoạn đầu thời quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong Hiến pháp năm 1992, quy định rất nhiều những vấn đề của đất nước, của hệ thống pháp luật và của cả hệ thống chính trị… Trong đó có chương II và chương V có nhiều quy định liên quan tới Luật dân sự. Đặc biệt trong chương V quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Ngoài những quyền về chính trị xã hội là một loại các quyền công dân được Hiến pháp ghi nhận như: quyền bình đẳng về năng lực pháp luật dân sự của cá nhân, các quyền nhân thân và quyền tài sản….
Bộ luật dân sự được đánh giá là có vị trí thứ hai sau Hiến pháp trong việc hình thành và cụ thể hóa quyền nhân thân của cá nhân. “Bộ luật dân sự năm 2015” là bộ luật lớn nhất của Nhà nước ta về phạm vi điều chỉnh, số lượng các điều luật, sự rộng rãi trong việc lấy ý kiến của các cấp, các nghành, thời gian chuẩn bị… Bộ luật dân sự đã thể chế hóa đường lối phát triển kinh tế của Đảng cộng sản Việt Nam, cụ thể hóa Hiến pháp 1992 nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể và đặc biệt là của cá nhân.Bộ luật dân sự cụ thể hóa các quyền nhân thân của cá nhân mà Hiến pháp ghi nhận, là chuẩn mực ứng xử pháp lý cho các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự và thực hiện những quyền nhân thân gắn với mỗi chủ thể. Quyền nhân thân trong “Bộ luật dân sự 2015” được quy định từ Điều 24 đền Điều 51. Số lượng các quy định trong Bộ luật dân sự cũng chiếm một phần đáng kể và tới “Bộ luật dân sự 2015” đã đánh dấu những bước phát triển mới trong việc xây dựng và hoàn thiện về quyền nhân thân của cá nhân.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật dân sự qua tổng đài: 1900.6568
Quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về các quyền nhân thân Việc hình thành và phát triển của quyền nhân thân luôn xuất phát từ cơ sở của nó. Và cơ sở pháp lý là điều cốt lõi. Ở nước ta thì Hiến pháp là cơ sở đầu tiên và quan trọng cho việc hình thành và phát triển của các quyền nhân thân thông qua sự cụ thể hóa trong luật dân sự. Do vậy quyền nhân thân cũng có sự phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của các bản Hiến pháp. Ở nước ta, quyền nhân thân của cá nhân cũng có những bước phát triển nhất định.
Dưới thời Pháp thuộc, các quyền dân sự nói chung và quyền nhân thân nói riêng được thực dân Pháp quy định nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội.
Giai đoạn 1945 – 1959 Quyền nhân thân được thể hiện trong Hiến pháp 1946. Trong bối cảnh đất nước vừa thoát khỏi chế độ xã hội cũ – xã hội mà mọi người đều có thể chịu sự kiểm soát, bắt bớ tù đày với những lý do không thể hiểu nổi – thì quy định của Hiến pháp 1946 về quyền nhân thân đã đánh giá được sự tiến bộ của Nhà nước ta lúc bấy giờ. Đây là sự lỗ lực, cố gắng của Nhà nước ta trong viêc phấn đấu giành quyền tự do dân chủ cho con người như :
“… nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam, không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật”
Hay các quy định của pháp luật liên quan tới quyền bầu cử và ứng cử (Điều 18)….Trên cơ sở quy định của Hiến pháp 1946, các văn bản pháp luật có hiệu lực sau Hiến pháp giai đoạn này cũng đã cụ thể hóa quyền nhân thân, trong đó có luật báo chí ngày 20/5/1957. Quyền tự do ngôn luận là một nội dung quan trọng được quy định cụ thể trong đó hay khi báo chí đăng tin sai sự thật, vu khống thì phải xin lỗi và tùy mức độ người bị vi phạm có thể yêu cầu Tòa án giải quyết.
Giai đoạn 1959 – 1980 Giai đoạn này là giai đoạn đánh dấu sự ra đời và phát triển của nền lập pháp với bản Hiến pháp 1959 ra đời tiếp nối và kế thừa Hiến pháp 1946. Hiến pháp đã giành chương II với tiêu đề “quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân”, trong đó là các quy định quyền dân sự nói chung và quyền nhân thân nói riêng (từ Điều 22 đến Điều 42 ). Cùng với sự biến động của hoàn cành lịch sử đất nước, quyền nhân thân của cá nhân được quy định trong Hiến pháp có ý nghĩa lịch sử xã hội sâu sắc. Các quy định về quyền nhân thân trong Hiến pháp 1959 một mặt tạo niềm tin cho con người mới xã hội chủ nghĩa, một mặt động viên, khích lệ tinh thần đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân ta.
Giai đoạn 1980 – 1992 Trên cơ sở ban hành Hiến pháp 1980, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều các văn bản pháp luật để cụ thể hóa các quy định liên quan đến việc ghi nhận và thực hiện quyền nhân thân của cá nhân. Bên cạnh các quy định của pháp luật quốc gia liên quan tới các quyền nhân thân, Nhà nước ta đã có những nỗ lực quan trọng trong việc ký kết và tham gia các công ước quốc tế trong lĩnh vực quyền con người.Nói là vậy, nhưng thực sự là một số quyền dân sự cũng như quyền nhân thân của cá nhân được quy định trong Hiến pháp 1980 không có tính khả thi và không thể thực hiện được nó trong thực tiễn lúc bấy giờ như tại Điều 60, Điều 61… Theo đó thì Nhà nước đảm bảo thực hiện chế độ học không phải trả tiền hay chế độ khám bệnh và chữa bệnh không phải trả tiền lúc bấy giờ thì hoàn toàn là không thể và tới bây giờ ở nước ta cũng là chưa thể.
Giai đoạn 1992 – nay
Quyền nhân thân là một trong những quyền dân sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng được pháp luật của các quốc gia trên thế giới ghi nhận và bảo vệ. Đó là một quyền gắn với con người, vì con người và phát triển cùng con người.