Thời hạn tạm giam theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Quy định pháp luật về tạm giam.
Mục lục bài viết
- 1 1. Thời hạn tạm giam và việc gia hạn để điều tra
- 2 2. Thời hạn tạm giam để truy tố
- 3 3. Thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm
- 4 4. Thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm
- 5 5. Thời hạn tạm giam để đảm bảo thi hành án
- 6 6. Một số quy định khác liên quan đến việc tạm giam:
- 7 7. Thời hạn tam giam đối với tội kinh doanh trái phép
- 8 8. Thời hạn tạm giam, gia hạn tạm giam, truy tố và xét xử
- 9 9. Thời hạn tạm giam theo quy định của pháp luật hiện hành
1. Thời hạn tạm giam và việc gia hạn để điều tra
Được quy định cụ thể tại Điều 173 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2016) và phụ thuộc vào từng loại tội :
“- Đối với tội phạm ít nghiêm trọng thời hạn tạm giam không quá 2 tháng, trong thời gian này có quyền gia hạn một làn không quá 2 tháng.
Luật sư
– Đối với tội phạm nghiêm trọng thì thời hạn tạm giam không quá là 3 tháng, thời hạn này có thể gia hạn 2 lần, lần thứ nhất không quá 2 tháng, lần thứ hai không quá một tháng.
– Đối với tội phạm rất nghiêm trọng thì thời hạn tạm giam để điều tra là 04 tháng. Thời hạn này có thể được gia hạn hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng.
– Đối với tội đặc biệt nghiêm trọng thời hạn tạm giam để điều tra không quá 4 tháng. Trong thời hạn này có thể gia hạn ba lần mỗi lần không quá bốn tháng.”
Trong thời hạn tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì Cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ việc tạm giam để trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét thấy cần thiết thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Khi đã hết thời hạn tạm giam thì người bị tạm giam phải được trả tự do. Trường hợp xét thấy cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
2. Thời hạn tạm giam để truy tố
Thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra không quá 20 ngày, trong giai đoạn truy tố không quá 05 ngày, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm không quá 17 ngày, trong giai đoạn xét xử phúc thẩm không quá 22 ngày.
3. Thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm
– Loại thứ nhất là thời hạn được tính bằng ngày, tháng và được ghi trong lệnh tạm giam do Chánh án, phó Chánh án
– Loại thứ hai là thời hạn được tính bằng sự kiện “kết thúc phiên tòa”. Thời hạn này chỉ xuất hiện khi loại thời hạn thứ nhất đã hết mà không có căn cứ để thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam đang áp dụng và trả tự do cho bị cáo. Thời hạn này được ghi trong lệnh tạm giam do chánh án, phó chánh án quyết định với mục đích là để bảo đảm cho việc xét xử.
4. Thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm
Một là, thời hạn tạm giam được tính bằng ngày. Thời hạn này được quy định chung cho các loại tội phạm và phụ thuộc vào
Hai là, thời hạn tạm giam xuất hiện sau khi loại thứ nhất đã hết và kéo dài cho tới khi kết thúc phiên tòa phúc thẩm. Đây là thời hạn tạm giam đối với bị cáo đang bị tạm mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết và tòa án ra lệnh tạm giam khi xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử.
5. Thời hạn tạm giam để đảm bảo thi hành án
Ngay sau khi xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm HĐXX có thể quy định việc tạm giam bị có để đảm bảo việc thi hành án. Đối với giai đoạn xét xử sơ thẩm, Điều 278 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định:
“Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử thì Hội đồng xét xử ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa.”
Trong trường hợp bị cáo không bị tạm giam nhưng bị phạt tù thì họ chỉ bị bắt tạm giam để chấp hành hình phạt khi bản án đã có hiệu lực pháp luật. HĐXX có thể ra quyết định bắt tạm giam ngay bị cáo nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội. Thời hạn tạm giam bị cáo là bốn mươi lăm ngày kể từ ngày tuyên án.
Tại phiên tòa phúc thẩm, theo quy định tại Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 nếu bị cáo đang bị tạm giam, bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết thì HĐXX ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án. Thời hạn tạm giam là bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.
6. Một số quy định khác liên quan đến việc tạm giam:
Thứ nhất, về chế độ tạm giam: Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã chỉ rõ:
“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.”.
Thứ hai, chế độ chăm sóc người thân và bảo quản tài sản của người bị bị tạm giam được quy định tại Điều 120 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
“1. Trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam có người thân thích là người tàn tật, già yếu, có nhược điểm về tâm thần mà không có người chăm sóc thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh hoặc quyết định tạm giam giao người đó cho người thân thích khác chăm nom; trường hợp không có người thân thích thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh hoặc quyết định tạm giam giao những người đó cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi họ cư trú chăm nom. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em là con của người bị tạm giữ, tạm giam thực hiện theo quy định của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam.
2. Trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam có nhà ở hoặc tài sản khác mà không có người bảo quản thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh hoặc quyết định tạm giam phải áp dụng những biện pháp bảo quản.
3. Cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh hoặc quyết định tạm giam
Thứ ba, để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.
Như vậy, cá nhân có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ( ít nhất phải có hai người), phải là người có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và việc bảo lĩnh phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc; Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức của mình và việc bảo lĩnh phải có xác nhận của người đứng đầu tổ chức.
7. Thời hạn tam giam đối với tội kinh doanh trái phép
Tóm tắt câu hỏi:
Anh trai tôi bị khởi tố về tội kinh doanh trái phép theo Điều 159 Bộ luật hình sự. Hiện giờ anh trai tôi đang bị tạm giam để điều tra, tôi muốn hỏi Luật sư thời hạn tạm giam của anh tôi là bao nhiêu đối với tội kinh doanh trái phép. Tôi xin cảm ơn.
Luật sư tư vấn:
Theo quy định của BLTTHS:
Điều 120. Thời hạn tạm giam để điều tra:
1. Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
2. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam.
Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá một tháng;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá hai tháng và lần thứ hai không quá một tháng;
c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng;
d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.
Như vậy anh trai của bạn bị khởi tố về tội kinh doanh trái phép do không có đăng kí kinh doanh, kinh doanh không đúng với nội dung đăng kí kinh doanh hoặc kinh doanh không có giấy phép riêng trong trường hợp pháp luật quy định phải có giấy phép kinh doanh.
Trong trường hợp thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Theo đó tội kinh doanh trái phép là tội ít nghiêm trọng vì khung hình phạt cao nhất của tội này là tới hai năm vì vậy thời hạn tạm giam để điều tra đối với anh bạn là không quá hai tháng.
8. Thời hạn tạm giam, gia hạn tạm giam, truy tố và xét xử
Tóm tắt câu hỏi:
Em tôi vi phạm pháp luật bị tạm giam 3 tháng. Sau đó Viện Kiểm sát lại gia hạn tạm giam tiếp 3 tháng nữa và sau 2 tháng thì
Luật sư tư vấn:
1. Về thời hạn tạm giam
Tại Điều 120 của Bộ luật Tố tụng hình sự để xác định tính chính xác trong quyết định của cơ quan có thẩm quyền về thời hạn tạm giam
Đối chiếu các quy định tại Điều 120 với các thông tin mà bạn cung cấp, tội mà em trai bạn thực hiện có thể là tội phạm nghiêm trọng. Thời hạn tạm giam đối với tội phạm nghiêm trọng là không quá ba tháng; trường hợp cần thiết được gia hạn hai lần, lần một không quá hai tháng, lần hai không quá một tháng.
2. Về thời hạn truy tố, xét xử theo Bộ luật tố tụng hình sự tại:
“Điều 166. Thời hạn quyết định truy tố
1. Trong thời hạn hai mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát phải ra một trong những quyết định sau đây:
a) Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng;
b) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
c) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Trong trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn, nhưng không quá mười ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng; không quá mười lăm ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng; không quá ba mươi ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra một trong những quyết định nêu trên, Viện kiểm sát phải thông báo cho bị can, người bào chữa biết; giao bản cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án cho bị can. Người bào chữa được đọc bản cáo trạng, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa theo quy định của pháp luật và đề xuất yêu cầu.
2. Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can. Thời hạn tạm giam không được quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Trong trường hợp truy tố thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định truy tố bằng bản cáo trạng, Viện kiểm sát phải gửi hồ sơ và bản cáo trạng đến Tòa án.
4. Trong trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền truy tố của mình, Viện kiểm sát ra ngay quyết định chuyển vụ án cho Viện kiểm sát có thẩm quyền.
Điều 167. Bản cáo trạng
1. Nội dung bản cáo trạng phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm xảy ra tội phạm; thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội, hậu quả của tội phạm và những tình tiết quan trọng khác; những chứng cứ xác định tội trạng của bị can, những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của bị can và mọi tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Phần kết luận của bản cáo trạng ghi rõ tội danh và điều khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng.
2. Bản cáo trạng phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập cáo trạng; họ tên, chức vụ và chữ ký của người ra bản cáo trạng.”
Căn cứ theo quy định của pháp luật trên thì bạn có thể xác định thời gian truy tố và xét xử cho em trai bạn. Như vậy, giả sử em trai bạn phạm tội nghiêm trọng thì thời hạn từ lúc kết thúc điều tra đến khi đưa vụ án ra xét xử và mở phiên tòa là mất khoảng 80 ngày; trường hợp gia hạn thì có thể lên đến 135 ngày.
9. Thời hạn tạm giam theo quy định của pháp luật hiện hành
Tóm tắt câu hỏi:
Gửi Luật sư, tôi bị Công an bắt, sau 2 năm giam giữ tôi, án đã không xử nay Viện kiểm sát quyết định cho tại ngoại về gia đình. Tôi xin hỏi tôi có còn là người BỊ TẠM GIAM nữa không? Quyền lợi công dân có được hưởng không? Xin cám ơn?
Luật sư tư vấn:
– Căn cứ Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định về tạm giam như sau:
“Điều 88. Tạm giam
1. Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
2. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
b) Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
c) Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
3. Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.
4. Cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết”
– Căn cứ Điều 120 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định về thời hạn tạm giam để điều tra như sau:
“Điều 120. Thời hạn tạm giam để điều tra
1. Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
2. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam.
Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá một tháng;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá hai tháng và lần thứ hai không quá một tháng;
c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng;
d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.
3. Thẩm quyền gia hạn tạm giam của Viện kiểm sát được quy định như sau:
a) Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Trong trường hợp gia hạn tạm giam lần thứ nhất quy định tại điểm a khoản này đã hết mà vẫn chưa thể kết thúc việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm nghiêm trọng. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
4. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp trung ương thì việc gia hạn tạm giam thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương.
5. Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, trong trường hợp thời hạn gia hạn tạm giam lần thứ hai quy định tại điểm b khoản 3 Điều này đã hết và vụ án có nhiều tình tiết rất phức tạp mà không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể gia hạn tạm giam lần thứ ba.
Trong trường hợp cần thiết đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá bốn tháng.
6. Trong khi tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì Cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát huỷ bỏ việc tạm giam để trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Khi đã hết thời hạn tạm giam thì người ra lệnh tạm giam phải trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.”
Luật sư tư vấn về tạm giam, tạm giữ qua tổng đài:19006568
Như vậy, căn cứ vào Điều 120 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định về thời hạn tạm giam để điều tra nêu trên, thời hạn tạm giam dài nhất là đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là không quá 4 tháng, trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng; trong trường hợp cần thiết đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá bốn tháng. Do vậy, thời hạn tối đa để tạm giam đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là 16 tháng, đối với tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia là 20 tháng. Trong tường hợp bạn cung cấp thông tin bạn bị tạm giam 2 năm tương đương 24 tháng tức là không đúng với quy định của pháp luật về thời hạn tạm giam.
Căn cứ Khoản 6 Điều 120 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định về thời hạn tạm giam để điều tra nêu trên, trong khi tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì Cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát huỷ bỏ việc tạm giam để trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác hoặc khi đã hết thời hạn tạm giam thì người ra lệnh tạm giam phải trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Như vậy, khi có quyết định của Cơ quan điều tra về việc huỷ bỏ việc tạm giam hoặc khi hết thời hạn tạm giam thì bạn được trả tự do. Khi đó bạn không còn là người bị tạm giam. Tuy nhiên, có thể bạn sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác theo quyết định của cơ quan điều tra. Do đó không thể khẳng định về quyền lợi công dân của bạn có bị hạn chế gì hay không. Tuy nhiên, căn cứ Khoản 6 Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định về thời hạn điều tra như sau:
“6. Khi đã hết thời hạn gia hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra.”
Như vậy, nếu có quyết định đình chỉ điều tra của Cơ quan điều tra sau khi hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm thì bạn không còn là ngừoi bị tình nghi, người bị buộc tội hay người bị tạm giam nữa. Khi đó bạn là công dân bình thường được hưởng quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật.