Những dấu hiệu cơ bản để phân biệt các tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, cướp giật tài sản và trộm cắp tài sản.
Tóm tắt câu hỏi:
Kính gửi các cô, chú luật sư! Cháu đang học Luật hình sự và có một tình huống như sau cần tư vấn:
A là học sinh lớp 1 thường được bố đưa đón đi học. 17h ngày 25 tháng 8 năm 2011, sau khi tan học, trong khi A đang đứng ở cổng trường chờ bố đến đón thì Nguyễn Văn B thấy A đeo 1 sợi dây chuyền nên lại gần và hỏi: “Cháu tên là gì?”. Cháu A lễ phép trả lời câu hỏi của B. Sau đó, B liên tiếp hỏi A một số câu hỏi như: cháu bao nhiêu tuổi, cháu học lớp nào, cô giáo cháu tên gì, nhà cháu ở đâu… Trong lúc hỏi chuyện, B xoa đầu A rồi tháo một sợi dây chuyền vàng đeo trên cổ A. Sau khi kết thúc vài ba câu hỏi, B bỏ đi cùng chiếc dây chuyền vàng vừa tháo được. Chiếc dây chuyền vàng của A trị giá 5 triệu đồng.
Về vụ án trên có các quan điểm sau:
a. B phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
b. B phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
c. B phạm tội cướp giật tài sản.
Như vậy, B có phạm một trong số các tội trên hay không?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Về quan điểm cho rằng B phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự 1999, là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối. Quan điểm này cho rằng việc B trò chuyện cùng A chính là thủ đoạn gian dối, bởi lẽ thực chất B muốn chiếm đoạt chiếc dây chuyền của A nhưng lại giả vờ bằng việc trò chuyện với A, cháu A tưởng B muốn hỏi thông tin thật nên đã tin và trả lời lại, không tập trung nên đã tạo cơ hội cho B chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, việc B liên tiếp hỏi A các câu hỏi về tên, tuổi, địa chỉ… cho dù là thủ đoạn gian dối cũng không phải là hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mà chỉ là hành vi để tiếp cận tài sản, tạo thuận lợi để sau đó mới thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Chiếc dây chuyền bị chiếm đoạt trong tình trạng A không hề hay biết, vì vậy, càng không phải A vì tin tưởng B mà tự nguyện đem chiếc dây chuyền của mình đưa cho B. Vậy nên, B không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Về quan điểm cho rằng B phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản:
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 137, Bộ luật hình sự 1999, là lợi dụng chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản công nhiên chiếm đoạt tài sản của họ. Trong tình huống trên, có thể có lập luận rằng, B đã tiến hành chiếm đoạt tài sản ở nơi công cộng (cổng trường học), và có thể, B cũng không che giấu hành vi chiếm đoạt của mình trước sự quan sát của rất nhiều người xung quanh, vậy nên, hành vi của B là công nhiên chiếm đoạt. Tuy nhiên, cần xem xét kỹ rằng, A mới là chủ tài sản và người trực tiếp quản lý tài sản trong thời điểm này, mà A lại không hề biết rằng mình bị tháo mất dây chuyền, cũng không hề biết mục đích và hành vi chiếm đoạt của B, cho nên, không thể cho rằng B đã chiếm đoạt tài sản một cách công khai. Vì vậy, B không phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Về quan điểm B phạm tội cướp giật tài sản:
Tội cướp giật tài sản, được quy định tại Điều 136, Bộ luật hình sự 1999, là hành vi nhanh chóng chiếm đoạt tài sản một cách công khai. Như vậy có thể thấy, hành vi của B vừa không thỏa mãn dấu hiệu công khai, vừa không thỏa mãn dấu hiệu nhanh chóng, vậy nên B không phạm tội cướp giật tài sản.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Trong trường hợp này B đã phạm tội trộm cắp tài sản:
Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có chủ và thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự. Hành vi chiếm đoạt được coi là lén lút nếu được thực hiện bằng hình thức mà hình thức đó có khả năng không cho phép chủ tài sản biết có hành vi chiếm đoạt khi hành vi này xảy ra. Ý thức chủ quan của người phạm tội cũng là lén lút nếu khi thực hiện hành vi chiếm đoạt người phạm tội có ý thức che giấu hành vi đang thực hiện của mình. Tuy nhiên, việc che giấu này chỉ đòi hỏi đối với chủ tài sản. Đối với những người khác, ý thức chủ quan của người trộm cắp tài sản có thể vẫn là công khai.
Như vậy, trong trường hợp này, chiếc dây chuyền của A là tài sản đang có chủ, đang thuộc sự chiếm hữu và quản lý của A. Thêm vào đó, chiếc dây chuyền vàng đó trị giá 5 triệu đồng, phù hợp với điều kiện tại Điều 138 (tài sản trộm cắp có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên). Và quan trọng hơn cả là dấu hiệu lén lút: có thể rằng B không có ý định che giấu đối với những người xung quanh khi đã thực hiện hành vi ở nơi đông người, tuy nhiên, ý thức chủ quan của B là lén lút đối với chủ tài sản là A, vì không muốn A biết được hành vi chiếm đoạt của mình, nên B mới dùng thủ đoạn “trò chuyện” để đánh lạc hướng chú ý của cháu bé. Thực tế khách quan là B đã chiếm đoạt được chiếc dây chuyền mà A không hề hay biết.
Hy vọng rằng sự tư vấn của chúng tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu còn bất cứ thắc mắc gì liên quan đến sự việc bạn có thể liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của Luật sư: 1900.6568 để được giải đáp.