Đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền đều là những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự.
Trong các giao dịch dân sự, các chủ thể có tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự. Tuy nhiên, có một số trường hợp nhất định các chủ thể có thể thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Điều 134
Điều 134. Đại diện
1. Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
2. Cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Cá nhân không được để người khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó.
3. Trường hợp pháp luật quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện.
Đại diện theo pháp luật
Đại diện theo pháp luật là đại diện được xác lập theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật (Điều 135 BLDS).
– Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
– Người giám hộ đối với người được giám hộ.
Đại diện theo “quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền” được coi là đại diện theo quyết định của cơ quan hành chính trong những quyết định riêng biệt. Đó là các trường hợp:
– Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định.
– Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện
– Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
– Đại diện theo pháp luật của pháp nhân
+ Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ;
+ Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật;
+ Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.
2. Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của
Đại diện theo ủy quyền
Có nhiều lý do khác nhau để cá nhân, người đứng đâu pháp nhân, chủ hộ gia đình… không thể trực tiếp xác lập, thực hiện giao dịch các giao dịch dân sự. Pháp luật cho phép họ có thể uỷ quyền cho người khác thay mặt mình tham gia giao dịch.
Khoản 1 Điều 138 Bộ luật dân sự 2015 quy định: Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
Khác với đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, đại diện theo uỷ quyền là trường hợp quan hệ đại diện được xác lập theo ý chí của hai bên: Bên đại diện và bên được đại diên, biểu hiện qua một hợp đồng uỷ quyền hoặc một giấy uỷ quyền. Nôi dung uỷ quyền, phạm vi thẩm quyền đại diện và trách nhiệm của người đại diện theo uỷ quyền được xác định thông qua sự thoả thuận của người đại diện và người được đại diện.
Ủy quyền là phương tiện pháp lý cần thiết tạo điều kiện cho cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác của quan hệ dân sự, bằng nhiều hình thức khác nhau có thể tham gia vào giao dịch dân sự một cách thuận lợi nhất, bảo đảm thoả mãn nhanh chóng các lợi ích vật chất, tinh thần mà chủ thể quan tâm.
Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng được ủy quyền để xác lập, thực hiện giao dịch. Vẫn có những trường hợp pháp luật không cho phép xác lập giao dịch thông qua người đại diện như: Lập di chúc, xin cấp
>>> Luật sư
Hậu quả pháp lý của hành vi đại diện
Theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 thì giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện với người thứ ba phù hợp với phạm vi đại diện sẽ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện. Người đại diện có quyền xác lập, thực hiện hành vi cần thiết để đạt được mục đích của việc đại diện.
Trong trường hợp người đại diện biết hoặc phải biết việc xác lập hành vi đại diện là do bị nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép mà vẫn xác lập, thực hiện hành vi thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ trường hợp người được đại diện biết hoặc phải biết về việc này mà không phản đối.
Thời hạn đại diện
Thời hạn đại diện được xác định theo văn bản ủy quyền, theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp không xác định thời hạn theo các cơ sở nêu trên thì thời hạn được xác định như sau:
– Nếu quyền đại diện được xác định theo giao dịch dân sự cụ thể thì thời hạn đại diện được tính đến thời điểm chấm dứt giao dịch dân sự đó;
– Nếu quyền đại diện không được xác định với giao dịch dân sự cụ thể thì thời hạn đại diện là 01 năm, kể từ thời điểm phát sinh quyền đại diện.
Đại diện theo ủy quyền sẽ chấm dứt trong các trường hợp sau:
– Theo thỏa thuận;
– Thời hạn ủy quyền đã hết;
– Công việc được ủy quyền đã hoàn thành;
– Người được đại diện hoặc người đại diện đơn phương chấm dứt thực hiện việc ủy quyền;
– Người được đại diện, người đại diện là cá nhân chết; người được đại diện, người đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại;
– Người đại diện không còn đủ điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 134 của Bộ luật này;
– Căn cứ khác làm cho việc đại diện không thể thực hiện được.
Đại diện theo pháp luật chấm dứt trong trường hợp sau đây:
– Người được đại diện là cá nhân đã thành niên hoặc năng lực hành vi dân sự đã được khôi phục;
– Người được đại diện là cá nhân chết;
– Người được đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại;
– Căn cứ khác theo quy định của Bộ luật dân sự hoặc luật khác có liên quan.