Các tội phạm xâm phạm trật tự xã hội, an toàn xã hội được Bộ luật quy định rất chặt chẽ, hầu hết các tội đều là các hành vi đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, trong đó có tội bắt cóc con tin. Trong bài viết dưới đây, tác giả tập trung vào phân tích các dấu hiệu về tội bắt cóc con tin và hình phạt áp dụng đối với loại tội phạm này.
Mục lục bài viết
1. Tội bắt cóc con tin là gì theo pháp luật quốc tế?
Theo công ước quốc tế về chống bắt cóc con tin năm 1979, ” người nào bắt giữ hoặc giam cầm và đe doạ giết, làm bị thương hoặc tiếp tục giam cầm người khác (sau đây gọi là “con tin”) nhằm mục đích cưỡng ép bên thứ ba, cụ thể là một quốc gia, một tổ chức quốc tế liên chính phủ, một pháp nhân hoặc một thể nhân hoặc một nhóm người phải làm hoặc không làm một việc nào đó như một điều kiện rõ ràng hoặc ngầm hiểu để phóng thích con tin, thì bị coi là phạm tội bắt con tin.”
Quốc gia thành viên phải trừng trị bằng các hình phạt thích đáng các tội, có tính đến tính chất nghiêm trọng của tội đó.
2. Tội bắt cóc con tin là gì theo pháp luật Việt Nam?
Kế thừa tinh thần Công ước quốc tế về chống bắt cóc con tin, Bộ luật hình sự nước ta mặc dù không đưa ra khái niệm về Tội bắt cóc con tin nhưng cũng đưa ra mô tả cấu thành tội phạm tội bắt cóc con tin. Có thể hiểu tội bắt cóc con tin là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt đủ độ tuổi luật định thực hiện hành vi cố ý bắt, giữ hoặc giam người khác làm con tin nhằm cưỡng ép một quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân làm hoặc không làm một việc như một điều kiện để thả con tin.
3. Quy định của Bộ luật hình sự về tội bắt cóc con tin:
Điều 301
“1. Người nào bắt, giữ hoặc giam người khác làm con tin nhằm cưỡng ép một quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân làm hoặc không làm một việc như một điều kiện để thả con tin, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 113 và Điều 299 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 04 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người đủ 70 tuổi trở lên;
d) Đối với người đang thi hành công vụ;
đ) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
4. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm.
5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”
4. Cấu thành tội phạm tội bắt cóc con tin:
Đây là tội phạm lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật hình sự, các dấu hiệu pháp lý của tội bắt cóc con tin sau đây:
* Dấu hiệu khách thể của tội phạm.
Tội bắt cóc con tin xâm phạm đồng thời trật tự xã hội, an toàn xã hội và xâm phạm các quyền nhân thân của con người, đó là quyền được bảo đảm về tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể.
* Dấu hiệu khách quan của tội phạm.
Hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm là: bắt, giữ hoặc giam người khác làm con tin nhằm cưỡng ép một quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân làm hoặc không làm một việc như một điều kiện để thả con tin, trừ trường hợp là hành vi phạm tội quy định tại Điều 113 (Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản) và Điều 299 (Tội khủng bố) của BLHS năm 2015.
Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm này. Tội phạm hoàn thành khi hành vi phạm tội được thực hiện.
Dấu hiệu chủ quan của tội phạm.
Lỗi của người thực hiện tội bắt cóc con tin là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
Mục đích phạm tội là buộc bên thứ ba làm hòa không làm một việc như một điều kiện để thả con tin (thông thường là yêu cầu tiền chuộc hoặc mục đích chính trị). Đây là dấu hiệu bắt buộc để định tội và là cơ sở để phân biệt giữa tội phạm này với một số tội phạm khác có hành vi tương tự.
Dấu hiệu chủ thể của tội phạm.
Chủ thể của tội phạm này là người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.
Hình phạt áp dụng:
– Khung hình phạt cơ bản: bị phạt tù từ 01 năm đến 04 năm.
– Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất: bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm, khi có các tình tiết tăng nặng sau:
+ Có tổ chức: Là trường hợp có từ hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm và đòi hỏi phải có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Khi đã xác định được trường hợp cụ thể đó là phạm tội có tổ chức, thì phải áp dụng tình tiết tăng nặng này đối với tất cả những người cùng thực hiện tội phạm (người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức). Mức độ tăng nặng phụ thuộc vào quy mô tổ chức, vai trò của từng người trong việc tham gia vụ án.
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội là người có chức vụ đã lợi dụng vị trí công tác, lợi dụng quyền hạn trong khi thực hiện công vụ để phạm tội.
+ Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người đủ 70 tuổi trở lên:
+ Đối với người đang thi hành công vụ:
+ Gây hậu quả nghiêm trọng: Hậu quả phải do hành vi phạm tội gây ra. Hậu quả có thể là thiệt hại về vật chất và có thể là thiệt hại phi vật chất.
– Khung hình phạt tăng nặng thứ hai: bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
– Khung hình phạt tăng nặng thứ ba: bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm.
Hậu quả phải do hành vi phạm tội gây ra. Hậu quả có thể là thiệt hại về vật chất và có thể là thiệt hại phi vật chất.
Tùy từng hậu quả do từng loại tội phạm gây ra mà xác định trường hợp nào gây hậu quả nghiêm trọng, trường hợp nào gây hậu quả rất nghiêm trọng và trường hợp nào gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
Tội bắt cóc con tin không có hình phạt bổ sung, người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
5. Thực tế xét xử tội bắt cóc con tin tại Việt Nam:
Thực tế tội phạm này ở nước ta rất ít, các vụ án bị truy tố chủ yếu là tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Dưới đây là một bản án “hiếm” về tội bắt cóc con tin.
Bản án 76/2019/HS-ST của
– Do có ý định trốn khỏi Cơ sở cai nghiện ma túy Tỉnh Tây Ninh (gọi tắt Cơ sở), nên T và T1 bàn bạc với nhau sẽ khống chế cán bộ của Cơ sở để ra điều kiện với Cơ sở đưa T và T1 về nhà nhằm bỏ trốn.
– Khoảng 15 giờ 00 ngày 22/4/2019, lợi dụng lúc chị Chu Thị Phin là cán bộ Cơ sở phát phiếu tiền cho các học viên để sử dụng, khi chị Phin đi đến khu vực cổng khu B, C thì bị T dùng dao tự chế bằng kim loại dài 14,5 cm, phần lưỡi rộng nhất 1,2 cm, phần cán quấn vải màu trắng và T1 dùng dao tự chế cán bằng gỗ, lưỡi dao bằng kim loại dài 16,5 cm, phần lưỡi rộng nhất 1,5 cm, cán dao dài 08 cm quấn vải màu đỏ, kề vào cổ chị Phin khống chế, bắt giữ đe dọa xâm hại tính mạng, sức khỏe của chị Phin khi chị Phin đang mang thai khoảng 06 tháng và ra điều kiện yêu cầu Cơ sở phải đưa xe ô tô vào chở T và T1 về nhà để trốn khỏi Cơ sở.
– Đến khoảng 15 giờ 40 phút cùng ngày, chị Trần Thị Kim Ngân là cán bộ Cơ sở thay cho chị Phin. Khi chị Ngân vào thay cho chị Phin thì T và T1 tiếp tục dùng dao kề vào cổ khống chế đe dọa xâm hại tính mạng, sức khỏe của chị Ngân buộc Cơ sở phải thực hiện điều kiện mà T và T1 đã đưa ra.
– Để đảm bảo an toàn cho chị Ngân, Cơ sở buộc phải phân công anh Trần Ngọc Hoàng là T1 xế lái xe của Cơ sở, điều khiển xe ô tô biển số 70A – 001.51 đến đáp ứng theo yêu cầu. Tại bến xe khách, khi T và T1 yêu cầu anh Hoàng dừng xe và xuống xe nhằm bỏ trốn thì bị Công an huyện Tân Châu phối hợp với Công an thị trấn Củ Chi, huyện Củ Chi truy đuổi bắt, qua tes nhanh T và T1 đều dương tính với chất ma túy loại Methamphetamine.
– Hành vi của các bị cáo T, T1 đã cấu thành tội “Bắt cóc con tin” theo quy định tại điểm a, c khoản 2, Điều 301 Bộ luật Hình sự như luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.
– Quyết định của
+ Xử phạt bị cáo Đặng Hoài T (Be) 05 (năm) năm tù về tội “Bắt cóc con tin”, thời hạn chấp hành hình phạt tù, được tính từ ngày 22/4/2019.
+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành T1 03 (ba) năm tù về tội “Bắt cóc con tin”, thời hạn chấp hành hình phạt tù, được tính từ ngày 22/4/2019.