Bị can là người hoặc là pháp nhân đã bị khởi tố về hình sự. Vậy xử lý trong trường hợp không xác định được lý lịch bị can quy định như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Xử lý trong trường hợp không xác định được lý lịch bị can:
Điều 60 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2021 quy định về bị can, Điều này quy định bị can là người hoặc là pháp nhân đã bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua chính người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 15 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2021 quy định một trong các nguyên tắc của tố tụng hình sự đó chí là nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, Điều này quy định:
– Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Bị can có quyền nhưng sẽ không phải buộc chứng minh là mình vô tội.
– Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và phải đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can.
Theo đó, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp hợp pháp để xác định sự thật về lý lịch của bị can trong quá trình tố tụng. Nếu như chưa xác định được sự thật về lý lịch của bị can thì sẽ không thể đưa vụ án ra xét xử.
Trong trường hợp không xác định được lý lịch bị can để áp dụng biện pháp tạm giam thì sẽ được xử lý theo quy định tại khoản 2 Điều 119, Điều này quy định tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự đã quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:
– Đã bị áp dụng về biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
– Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc là không xác định được lý lịch của bị can;
– Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc là có dấu hiệu bỏ trốn;
– Tiếp tục phạm tội hoặc là có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
– Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp những tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, những tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người đã làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Theo đó, tạm giam có thể áp dụng đối với những bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, tuy nhiên nếu không có nơi cư trú rõ ràng hoặc là không xác định được lý lịch của bị can thì vẫn sẽ có thể thực hiện tạm giam đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự đã quy định hình phạt tù trên 02 năm.
2. Xác định được lý lịch bị can có bao gồm độ tuổi của bị can:
Căn cứ mẫu số 210 về mẫu lý lịch bị can được ban hành kèm theo Thông tư số 119/2021/TT-BCA quy định những biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về điều tra hình sự thì nội dung về ngày/tháng/năm sinh là một trong những nội dung buộc phải có trong bản lý lịch bị can. Như vậy, có thể khẳng định được rằng lý lịch bị can có bao gồm cả độ tuổi của bị can.
Xác định độ tuổi của bị can trong vụ án hình sự là một yêu cầu bắt buộc của những cơ quan tiến hành tố tụng. Ý nghĩa của việc xác định độ tuổi của bị can, của bị hại có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình xử lí, giải quyết các vụ án hình sự, là cơ sở pháp lý để cho các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định việc có hay là không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người trong một số các trường hợp theo quy định pháp luật định, như:
– Làm cơ sở để xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi các tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật Hình sự có quy định khác. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng theo quy định.
– Làm cơ sở để định tội, ví dụ như: Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi; Tội giao cấu hoặc có thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi cho đến dưới 16 tuổi; Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
– Làm cơ sở để xác định khung hình phạt, ví dụ như: tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi thuộc trong trường hợp đối với người dưới 10 tuổi
– Làm cơ sở để xác định tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, ví dụ như: phạm tội với người dưới 16 tuổi, với phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên; xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội
Việc xác định tuổi của bị can cũng như bị hại (người tham gia tố tụng) đối với trường hợp người chưa đủ 18 tuổi là yêu cầu có tính bắt buộc đối với những cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Để xác định chính xác về tuổi của họ thì trong hồ sơ vụ án phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh về tuổi như: giấy khai sinh (hoặc là giấy ghi chép ngày tháng, năm sinh đối với trường hợp không sinh tại cơ sở y tế), học bạ, giấy chứng minh nhân dân hoặc thẻ căn cước công dân. Nếu thiếu cơ sở chứng minh này thì hồ sơ vụ án coi như là bị thiếu chứng cứ quan trọng và không thể kết thúc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được.
3. Lý lịch bị can có bắt buộc do cơ quan điều tra lập:
Điều 37 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2021 quy định Điều tra viên được phân công tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra vụ án hình sự có những nhiệm vụ, quyền hạn:
– Trực tiếp kiểm tra, xác minh và lập hồ sơ giải quyết về nguồn tin về tội phạm;
– Thực hiện lập hồ sơ vụ án hình sự;
– Yêu cầu hoặc là đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật;
– Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, về kiến nghị khởi tố, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; lấy lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người đang bị tạm giữ; triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, bị hại, đương sự;
– Quyết định áp giải người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, bị can; quyết định dẫn giải người làm chứng, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị hại; quyết định giao người dưới 18 tuổi cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giám sát; quyết định thay đổi người giám sát đối với người dưới 18 tuổi phạm tội;
– Thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh hoặc là quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, xử lý vật chứng;
– Tiến hành khám nghiệm hiện trường, khai quật tử thi, khám nghiệm tử thi, xem xét về dấu vết trên thân thể, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra;
– Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra theo như sự phân công của Thủ trưởng Cơ quan điều tra theo quy định của Bộ luật này.
Thêm nữa, tại điểm b khoản 4 Điều 39 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2021 có quy định lập hồ sơ vụ án hình sự là một trong các nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cấp trưởng, cấp phó, cán bộ điều tra của những cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư mà được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Như vậy, qua các quy định trên thì có thể khẳng định được rằng điều tra viên, cán bộ điều tra mà được phân công tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra vụ án hình sự sẽ có nhiệm vụ lập hồ sơ vụ án hình sự (trong đó có lý lịch bị can). Do vậy, lý lịch bị can sẽ không chỉ do Cơ quan điều tra lập mà còn do các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra lập sau khi khởi tố bị can.
Những văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật tố tụng hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2021.