Xử lý khi bị đòi tiền bồi dưỡng để trả lại của rơi, không trả lại? Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên?
Hiện nay, vì nhiều lý do khác nhau mà nhiều quý bạn đọc đánh mất tài sản, giấy tờ, đồ, vật,… Nhiều người nhặt được của rơi sẽ tiến hành đăng tải lên trang mạng xã hội như Facebook, zalo,… đồng thời đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền hỗ trợ tìm kiếm và trả lại người bị mất. Tuy nhiên, có trường hợp nhặt được của rơi nhưng không trả lại người đánh mất mà chiếm giữ tài sản. Vậy, nên xử lý khi bị đòi tiền bồi dưỡng để trả lại của rơi, không trả lại?
Cơ sở pháp lý:
–
– Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình.
Luật sư
Mục lục bài viết
1. Xử lý khi bị đòi tiền bồi dưỡng để trả lại của rơi, không trả lại:
Hành vi đòi tiền bồi dưỡng để trả lại của rơi hoặc không trả lại khi chủ sở hữu hợp pháp của tài sản đòi lại là những hành vi vi phạm quy định pháp luật. Đối với những hành vi này, pháp luật quy định những hình thức xử phạt như sau:
1.1. Xử phạt vi phạm hành chính:
Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định xử lý khi bị đòi tiền bồi dưỡng để trả lại của rơi, không trả lại bị xử phạt vi phạm hành chính như sau: Đối với một trong những hành vi sau đây phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng:
– Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của cá nhân, tổ chức, trừ trường hợp gây thiệt hại về tài sản, phương tiện của cơ quan nhà nước, của người thi hành công vụ (điểm b khoản 3 Điều 21 Nghị định 144/2021/NĐ-CP);
– Dùng các thủ đoạn hoặc tạo ra hoàn cảnh để buộc người khác đưa tài sản, tiền;
– Mua, bán, sử dụng hoặc cất giữ tài sản của người khác mà biết rõ tài sản đó do vi phạm pháp luật mà có;
– Lừa đảo hoặc có hành vi gian lận trong việc môi giới, hướng dẫn giới thiệu dịch vụ mua, bán nhà, đất hoặc các tài sản khác;
– Cưỡng đoạt tài sản nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
– Sử dụng, mua, bán, thế chấp, cầm cố trái phép hoặc chiếm giữ tài sản của người khác;
Như vậy, hành vi đòi tiền bồi dưỡng để trả lại của rơi, không trả lại có thể bị xử phạt từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng. Ngoài ra, có thể áp dụng thêm các hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả như sau:
Hình thức xử phạt bổ sung:
– Tịch thu tang vật, phương tiện;
– Trục xuất người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính;
Biện pháp khắc phục hậu quả:
– Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp;
– Buộc trả lại tài sản do chiếm giữ trái phép;
– Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu;
1.2. Truy cứu trách nhiệm hình sự:
Căn cứ theo Điều 176 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, năm 2021) quy định đối với trường hợp nhặt được của rơi mà không trả lại có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, cụ thể:
Thứ nhất, tài sản trị giá từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc dưới 10.000.000 đồng nhưng tài sản là di vật, cổ vật bị giao nhầm hoặc do mình tìm được, bắt được mà người nào cố tình không trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm thì sau khi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có trách nhiệm yêu cầu được nhận lại tài sản này theo quy định của pháp luật, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Thứ hai, phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với trường hợp phạm tội chiếm giữ tài sản trị giá 200.000.000 đồng trở lên hoặc bảo vật quốc gia.
2. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên:
Căn cứ theo Điều 230 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về việc xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên như sau:
– Trường hợp không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.
Trường hợp, Người phát hiện tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho người đó;
Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở hữu.
– Trường hợp không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai về tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên thì quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định như sau:
+ Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bỏ quên có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì theo quy định của Bộ luật Dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan thì người nhặt được được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó;
Sau khi trừ chi phí bảo quản, trường hợp tài sản có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người nhặt được được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước;
+ Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên là các tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa thì người nhặt được tài sản được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật và tài sản đó thuộc về Nhà nước.
Tuy nhiên, đối với trường hợp không tìm được chủ tài sản, tài sản vô chủ thì căn cứ xác định theo Điều 228 Bộ luật Dân sự năm 2015, cụ thể như sau:
– Tài sản vô chủ được hiểu là tài sản mà chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản. Người đang quản lý, người đã phát hiện tài sản vô chủ là động sản thì có quyền sở hữu tài sản đó, ngoại trừ trường hợp luật có quy định khác. Tuy nhiên, nếu tài sản là bất động sản thì thuộc về Nhà nước.
– Người phát hiện tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu thì người đó cần phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã/phường hoặc công an cấp xã/phường nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại tài sản bị mất.
Phải được lập biên bản đối với việc giao nộp tài sản, trong đó biên bản phải ghi rõ các nội dung sau: ghi rõ họ, tên, địa chỉ của người giao nộp, người nhận, tình trạng, số lượng, khối lượng tài sản giao nộp.
Ủy ban nhân dân cấp xã/phường hoặc công an cấp xã/phường đã nhận tài sản phải thông báo cho người phát hiện về kết quả xác định chủ sở hữu.
Sau 01 năm, kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhận tài sản tiến hành thông báo công khai mà vẫn không xác định được ai là chủ sở hữu đối với trường hợp tài sản là động sản thì quyền sở hữu đối với động sản đó thuộc về người phát hiện tài sản.
Sau 05 năm, kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã tiến hành thông báo công khai mà không xác định được ai là chủ sở hữu tài sản là bất động sản thì bất động sản đó thuộc về Nhà nước và người phát hiện được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, đối với tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy thì việc xác lập quyền sở hữu được xác lập căn cứ theo quy định tại Điều 229 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:
– Đối với tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm mà người nào phát hiện ra thì phải thông báo hoặc trả lại ngay cho chủ sở hữu.
Trường hợp không biết ai là chủ sở hữu thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã/phường hoặc công an cấp xã nơi gần nhất hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật.
– Đối với trường hợp tài sản bị chôn, chìm đắm, giấu, bị vùi lấp được tìm thấy mà không có hoặc không xác định được ai là chủ sở hữu thì sau khi trừ chi phí tìm kiếm, bảo quản, quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định như sau:
+ Tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hóa là tài sản tìm thấy theo quy định của Luật di sản văn hóa thì thuộc về Nhà nước và người tìm thấy tài sản đó được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật;
+ Tài sản được tìm thấy mà có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định không phải là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa thì thuộc sở hữu của người tìm thấy.
Trường hợp tài sản tìm thấy có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người tìm thấy được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước.