GS. Tạ Quang Bửu (1910–1986) là nhà khoa học lỗi lạc của Việt Nam, một trong những nhà tri thức tài giỏi của nước ta thời kỳ sau cách mạng tháng 8 năm 1945. Không chỉ là một trí tuệ uyên bác trong nhiều lĩnh vực - từ toán, lý cho tới triết học, âm nhạc, hội hoạ, trên hết, khi nhớ về ông, các trí thức cùng thời luôn coi ông là một người thầy, một người anh lớn để nhìn vào đó mà học hỏi, noi theo.
Mục lục bài viết
1. Viết đoạn văn giới thiệu về Giáo sư Tạ Quang Bửu hay nhất:
Giáo sư Tạ Quang Bửu không chỉ được biết đến như là một trong những nhà trí thức tài giỏi của Việt Nam mà còn là một người có ảnh hưởng sâu rộng đến nền văn hóa và giáo dục của đất nước. Ông không ngừng cống hiến cho sự nghiệp Cách mạng và giải phóng dân tộc, đồng thời đóng góp tích cực vào sự phát triển của nền khoa học và giáo dục Việt Nam. Không chỉ xuất sắc trong lĩnh vực toán học, Giáo sư Tạ Quang Bửu còn là một nhà nghiên cứu đa tài với kiến thức sâu rộng trong nhiều lĩnh vực khác như thể thao, kiến trúc, hội họa, âm nhạc,… Nét đặc biệt của ông là khả năng tự học phi thường nên ông tự khám phá sâu vào các lĩnh vực khoa học khác nhau một cách tự tin và thành thạo. Không chỉ giỏi trong tiếng Việt, Giáo sư Tạ Quang Bửu còn tinh thông nhiều ngoại ngữ như tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Ba Lan, từ đó mở ra cánh cửa cho ông tiếp cận với tri thức quốc tế và giao lưu văn hóa với các quốc gia khác. Ông là một người có tầm ảnh hưởng lớn đến các thế hệ trí thức đương thời và được các nhà khoa học uy tín đánh giá cao. Ông được đánh giá cao bởi các nhà khoa học uy tín và được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, thể hiện sự công nhận về những đóng góp to lớn của ông cho xã hội và văn hoá Việt Nam. Hậu thế được dự đoán sẽ tiếp tục được hưởng lợi từ những kiến thức và công trình ông để lại, qua những cuốn sách có giá trị và những di sản văn hóa mà ông đã góp phần xây dựng.
2. Viết đoạn văn giới thiệu về Giáo sư Tạ Quang Bửu ngắn nhất:
Tạ Quang Bửu (1910–1986) là giáo sư, nhà khoa học Việt Nam, người đặt nền móng cho lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự Việt Nam. Giáo sư Tạ Quang Bửu là một trong những nhà trí thức tài giỏi của Việt Nam từ khi giành độc lập năm 1945. Ông đã cống hiến rất nhiều cho sự nghiệp cách mạng và giải phóng dân tộc cũng như nền khoa học nước nhà và góp phần không nhỏ trong sự nghiệp phát triển giáo dục Việt Nam. Ông là một con người có nhiều tài năng, từ khả năng toán học đến nghệ thuật, khả năng ngoại ngữ đáng nể. Ông là người yêu sách, ông thích đọc và viết khá nhiều sách. Dù công việc có bận rộn đến đâu, ông vẫn luôn dành thời gian để đọc sách. Tài năng, những cống hiến và nỗ lực của ông được mọi người công nhận và kính trọng. Sự ra đi của ông để lại nhiều nỗi tiếc thương cho người dân Việt Nam.
3. Viết đoạn văn giới thiệu về Giáo sư Tạ Quang Bửu ý nghĩa nhất:
Tạ Quang Bửu sinh vào ngày 23 tháng 7 năm 1910, trong một gia đình giáo viên ở làng Hoành Sơn, xã Nam Hoành (nay là xã Khánh Sơn), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Năm 1917, tại Tam Kỳ – Quảng Nam, trong kỳ thi Hán tự – Văn hóa Việt – Toán dành cho học sinh lớp bảy, ông đã đạt kết quả cao và từ đó trở nên nổi tiếng với thành tích học tập ấn tượng. Năm 1922, ông thi vào trường Quốc học Huế và đạt thứ hạng 11. Sau đó, ông tiếp tục học ở Hà Nội, vào trường Bưởi. Năm 1929, sau khi đỗ kỳ thi tài năng Việt và kỳ thi tài năng Toán của Tây Ban Nha, ông nhận được học bổng từ Hội Như Tây Du học của Nguyễn Hữu Bài và sang Pháp học. Ông đỗ vào Trường Centrale (A) Paris vào năm 1930, học Toán tại các trường Đại học Paris, Bordeaux (Pháp) và Oxford (Anh) từ 1930 đến 1934. Tại Pháp, năm 1929, ông đăng ký học lớp toán đặc biệt tại trường Louis le Grand về toán học và vật lý lý thuyết, cũng như đăng ký học cử nhân toán tại Viện Henri Poincaré. Ông tham dự các buổi giảng và thảo luận tại giảng đường Hermite và Darboux. Tại đây, ông tiếp xúc với nhiều nhà toán học trẻ của Pháp, và gia nhập nhóm Nicolas Bourbaki. Điều này đã mở ra cơ hội cho ông viết tác phẩm “Về cấu trúc” của Bourbaki vào năm 1961. Ông thi vào trường Centrale Paris năm 1930, theo học chương trình cử nhân khoa học ở Đại học Sorbonne, và học toán tại các Đại học Paris, Đại học Bordeaux (Pháp) từ 1930 đến 1934, trước khi sang Đại học Oxford (Anh) để học thêm về vật lý lượng tử. Trở về Việt Nam vào năm 1934, ông không theo con đường làm quan mà chọn làm giáo viên toán và tiếng Anh tại các trường tư, bắt đầu từ trường Phú Xuân, sau đó là Trường Thiên Hựu ở Huế. Ngoài ra, ông còn dạy các môn khoa học tự nhiên khác như động vật, thực vật và khoáng vật, dựa trên kiến thức đặc biệt mà ông tự nghiên cứu và thu thập. Ngoài công việc giảng dạy, ông còn tham gia hoạt động thể thao và chia sẻ kinh nghiệm luyện tập với học sinh, bao gồm kỹ thuật đánh bóng bàn theo kiểu Barma và kỹ thuật bơi sải (crawl). Từ năm 1942 đến 1945, ông làm công việc nghiên cứu cho công ty Điện-Nước SIPEA, tham gia thiết kế các bộ phận cho nhà máy điện và tái chế dầu nhờn cho Quy Nhơn. Ông từ chối Huân chương Bắc đẩu do Pháp trao vì thiết kế đường dây điện cao thế cho nhà máy vôi Long Thọ, và tiếp tục nghiên cứu về cơ học lượng tử và phương trình vi phân. Từ năm 1942 đến 1945, ông là Vụ trưởng Vụ nghiên cứu điện – nước Trung kỳ, tham gia đàm phán ở Đà Lạt vào tháng 4/1943. Tháng 8/1945, ông tham gia cách mạng và từ tháng 9/1945 đến tháng 1/1946, ông làm Tham nghị trưởng Bộ Ngoại giao trong chính phủ lâm thời, phụ trách giao thiệp với Mỹ và Anh. Từ 11/1945 đến ngày Toàn quốc kháng chiến, ông vừa tham gia công việc chính trị, vừa dạy Vật lý tại Trường Đại học Hà Nội. Từ tháng 3/1946, ông được Quốc hội cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Tháng 6/1946, ông tham gia đàm phán ở Fontainebleau và được cử sang Thụy Sĩ dự kỷ niệm 200 năm Hội Khoa học Thụy Sĩ và tìm hiểu mua vũ khí. Trong thời gian kháng chiến, ông được giao nhiệm vụ đảm bảo vận chuyển cơ sở vật chất và kỹ thuật quân sự lên chiến khu. Tháng 7/1947, ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ tháng 8/1947 đến tháng 8/1948, ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và ủy viên Hội đồng Quốc phòng tối cao. Tháng 12/1947, ông là Ủy viên Quân sự ủy viên hội. Từ tháng 9/1948 đến năm 1961, ông là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và đảm nhiệm nhiều cương vị khác. Năm 1954, ông tham gia đàm phán ở Geneva và ký Hiệp định Genève thay mặt cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ năm 1956 đến 1961, ông làm Hiệu trưởng Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội. Từ năm 1957 đến 1959, ông được giao nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng tổ chức Khoa học Việt. Từ năm 1965 đến 1976, ông là Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Ông cũng là đại biểu Quốc hội liên tục từ khóa I đến khóa VI, cũng như là Phó Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ hoà bình thế giới của Việt Nam và Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt – Xô. Với những cống hiến của mình, ông được tặng các huân chương và huy chương uy tín của Đảng, Quốc hội và Nhà nước, trước khi qua đời vào ngày 21 tháng 8 năm 1986 tại Bệnh viện Hữu nghị Việt – Xô, hưởng thọ 76 tuổi. Năm 1996, ông được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ với “Tập hợp các công trình giới thiệu khoa học kĩ thuật hiện đại (sau 1945), chỉ đạo các nhiệm vụ kỹ thuật quan trọng trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước”. Ông cũng là một trong những người đầu tiên tham gia Hướng đạo Việt Nam và được trao cấp bằng trại trưởng. Ông được bầu làm Huynh trưởng Hướng đạo sinh Trung Kỳ.
4. Viết đoạn văn giới thiệu về Giáo sư Tạ Quang Bửu cảm xúc nhất:
GS Tạ Quang Bửu (1910–1986) là nhà khoa học lỗi lạc của Việt Nam, một trong những nhà tri thức tài giỏi của nước ta thời kỳ sau cách mạng tháng 8 năm 1945. Không chỉ là một trí tuệ uyên bác trong nhiều lĩnh vực – từ toán, lý cho tới triết học, âm nhạc, hội hoạ, trên hết, khi nhớ về ông, các trí thức cùng thời luôn coi ông là một người thầy, một người anh lớn để nhìn vào đó mà học hỏi, noi theo. Sau khi đi tu học ở các trường đại học của Pháp và về nước, năm 1934 (khi mới 24 tuổi), Tạ Quang Bửu từ chối lời mời ra làm quan mà đi dạy toán và tiếng Anh ở trường tư Providence (Huế). Ngoài 2 môn học này, ông còn nhận dạy các bộ môn khác theo yêu cầu của nhà trường – một việc hiếm ai có thể làm được. Với tinh thần tự học, tự nghiên cứu, ông không chỉ dạy học sinh những kiến thức trong sách, mà luôn mở rộng, phát triển nó ở trình độ cao hơn để giới thiệu cho học trò. Một điều đặc biệt ở GS Tạ Quang Bửu là ông chơi thể thao rất giỏi. Ông chơi được nhiều bộ môn như: bơi, chạy, nhảy cao, nhảy xa, bóng bàn… Là huynh trưởng của Hội Hướng đạo sinh Trung Kỳ, ông thường xuyên truyền đạt kinh nghiệm luyện tập cho học sinh, sinh viên đánh bóng bàn kiểu Barma (vận động viên vô địch thế giới người Hungary), tập điền kinh theo phương pháp khoa học nhất… Thời là du học sinh ở Anh, Pháp, ông còn tham gia cả những cuộc thi bơi đường dài, vượt eo biển Manche nối giữa Anh và Pháp. Bản thân ông, từ khi còn là sinh viên cho tới khi là một giáo sư hay một Bộ trưởng Bộ Đại học, chính là một ví dụ điển hình cho giáo dục toàn diện.