Quyết định truy tố trong giai đoạn xét xử là gì Các trường hợp Viện kiểm sát rút quyết định truy tố? Hậu quả pháp lý của việc rút quyết định truy tố? Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn?
Trong quá trình xét xử vụ án hình sự, Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa thì
1. Quyết định truy tố trong giai đoạn xét xử là gì?
Theo quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự, có thể hiểu truy tố là việc đưa người phạm tội ra trước tòa án để xét xử. Ở nhiều nước, truy tố thuộc thẩm quyền của Viện công tố. Theo quy định, truy tố người phạm tội ra trước tòa thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân, sau khi kết thúc điều tra, cơ quan điều tra làm bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố rồi gửi cùng hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát cùng cấp thực hiện thẩm quyền truy tố.
Quyết định truy tố bị can được quy định tại Điều 243
Theo quy định của luật, Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng.
Nội dung của bản cáo trạng ghi rõ diễn biến hành vi phạm tội; những chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị can, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân của bị can; việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và việc xử lý vật chứng; nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội và tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Phần kết luận của bản cáo trạng ghi rõ tội danh và điều, khoản, điểm của Bộ luật hình sự được áp dụng.
Bản cáo trạng phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra cáo trạng; họ tên, chức vụ và chữ ký của người ra bản cáo trạng.
2. Các trường hợp Viện kiểm sát rút quyết định truy tố?
Theo Điều 285 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015, Viện kiểm sát rút quyết định truy tố: “Khi xét thấy có một trong các căn cứ quy định tại Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự thì Viện kiểm sát rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án.”
Các căn cứ này theo Điều 157 như sau:
“Không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong các căn cứ sau:
1. Không có sự việc phạm tội;
2. Hành vi không cấu thành tội phạm;
3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
4. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
5. Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
6. Tội phạm đã được đại xá;
7. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;
8. Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.”
Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa thì Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ vụ án. Những căn cứ để Viện Kiểm sát rút quyết định truy tố và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án bao gồm: Không có sự việc phạm tội, hành vi không cấu thành tội phạm, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự, người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật, đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, tội phạm được đại xá, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, người phạm tội được đại xá, người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tới nghiệm trọng. cây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
3. Hậu quả pháp lý của việc rút quyết định truy tố?
Theo khoản 1 Điều 282 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án khi thuộc một trong các trường hợp:
“a) Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 hoặc các điểm 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 157 của Bộ luật này;
b) Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa.”
– Khi có một trong những căn cứ trên thì Viện kiểm sát rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án. Khi Viện kiểm sát rút quyết định truy tố hoặc khi mở phiên tòa theo một trong những căn cứ trên và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án thì Thẩm phần được phân công Chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án.
– Theo Điều 319 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 Kiểm sát viên rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa: “Sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên có thể rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn.”
Khi Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án. Trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì trước khi nghị án, Hội đồng xét xử yêu cầu những người tham gia phiên tòa trình bày ý kiến về việc rút quyết định truy tố đó.
Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố và thực hiện chức năng đó bằng cách ra bản Cáo trạng truy tố. Bộ luật tố tụng hình sự quy định cho Viện kiểm sát quyền rút hay thay đổi quyết định truy tố, nếu thấy rằng việc truy tố đó là không đúng. Trước khi mở phiên tòa, nếu Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ vụ án. Nếu Viện kiểm sát rút một phần quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử chỉ xét xử phần không bị rút truy tố.
Tại phiên tòa, chỉ sau khi xét hỏi, trong lời luận tội của mình Kiểm sát viên mới có thể tuyên bố rút toàn bộ hay một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội danh nhẹ hơn, nhưng Hội đồng xét xử vẫn phải xét xử toàn bộ vụ án. Tùy theo trường hợp mà Hội đồng xét xử xử lý như sau: Nếu Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố thì trước khi nghị án Hội đồng xét xử yêu cầu những người tham gia tố tụng tại phiên tòa trình bày ý kiến về việc rút truy tố đó. Khi nghị án nếu Hội đồng xét xử thấy rằng việc rút quyết định truy tố là đúng đắn thì ra bản án tuyên bị cáo vô tội; nếu thấy rằng bị cáo vẫn có tội và việc rút quyết định truy tố là không đúng thì quyết định tạm đình chỉ vụ án và báo cáo lên Viện kiểm sát cấp trên. Viện kiểm sát cấp trên nếu thấy quyết định của Viện kiểm sát cấp dưới là đúng đắn thì quyết định đình chỉ vụ án và
Nếu Viện kiểm sát rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội danh nhẹ hơn thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án và ra bản án theo thủ tục chung.
4. Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn?
Theo quy định của thủ tục xét xử rút gọn vụ án hình sự, quyết định truy tố của Viện kiểm sát được quy định tại Điều 461 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau
“1. Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được quyết định đề nghị truy tố và hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát ra một trong các quyết định:
a) Truy tố bị can trước Tòa án bằng quyết định truy tố;
b) Không truy tố bị can và ra quyết định đình chỉ vụ án;
c) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
d) Tạm đình chỉ vụ án;
đ) Đình chỉ vụ án.”
Viện kiểm sát có trách nhiệm ra quyết định truy tố hay không truy tố vụ án trong thời hạn 05 ngày. Quyết định truy tố ghi tóm tắt hành vi phạm tội, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và việc xử lý vật chứng; đặc điểm nhân thân của bị can, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nêu rõ lý do và căn cứ truy tố; tội danh, điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự được áp dụng; ghi rõ thời gian, địa điểm, họ tên và chữ ký của người ra quyết định.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định truy tố, Viện kiểm sát phải giao quyết định cho bị can hoặc người đại diện của họ; gửi cho Cơ quan điều tra, người bào chữa, bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ và chuyển quyết định truy tố cùng hồ sơ vụ án cho Tòa án.