Đảng là tổ chức chính trị có vị thế và uy tín, lãnh đạo đất nước tiến lên trên con đường xã hội chủ nghĩa. Công dân được đứng trong hàng ngũ của Đảng là một vinh dự lớn lao. Vậy, khi vào Đảng có lợi ích gì? Vào Đảng được đi nước ngoài không? Bài viết dưới đây sẽ đi trả lời thắc mắc cho quý bạn đọc!
Mục lục bài viết
1. Vào Đảng có lợi ích gì?
1.1. Điều kện để được kết nạp Đảng:
Để được vinh dự đứng trong đội ngũ Đảng viên, mỗi quần chúng cần phải đáp ứng được những điều kiện tại khoản 2 Điều 1 Điều lệ Đảng như sau:
Về quốc tịch: yêu cầu bắt buộc phải là công dân Việt Nam
Về độ tuổi:
– Tại thời điểm chi bộ xét kết nạp, người vào Đảng phải đủ từ 18 tuổi đến đủ 60 tuổi (tính theo tháng).
– Việc kết nạp vào Đảng những người trên 60 tuổi do cấp uỷ trực thuộc Trung ương xem xét, quyết định.
Chỉ xem xét kết nạp vào Đảng những người trên 60 tuổi khi đủ các điều kiện:
+ Có sức khoẻ và uy tín;
+ Đang công tác, cư trú ở cơ sở chưa có tổ chức đảng, chưa có đảng viên hoặc do yêu cầu đặc biệt;
+ Được ban thường vụ cấp ủy trực thuộc Trung ương đồng ý bằng văn bản trước khi cấp ủy có thẩm quyền ra quyết định kết nạp.
Về trình độ học vấn:
– Người vào Đảng phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên.
– Học vấn của người vào Đảng đang sinh sống ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn và những trường hợp cụ thể khác do yêu cầu phát triển đảng mà không bảo đảm được quy định chung thì thực hiện theo hướng dẫn của Ban Bí thư.
Người vào Đảng đang sinh sống ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn hoặc ngư dân thường xuyên làm việc ngoài biển, đảo, nếu không bảo đảm theo Quy định thi hành Điều lệ Đảng của Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII thì phải có trình độ học vấn tối thiểu hoàn thành chương trình bậc tiểu học.
Trình độ học vấn của người vào Đảng là già làng, trưởng bản, người có uy tín, đang sinh sống ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn hoặc ngư dân thường xuyên làm việc ngoài biển, đảo tối thiểu phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ và được ban thường vụ cấp ủy trực thuộc Trung ương đồng ý bằng văn bản trước khi cấp ủy có thẩm quyền ra quyết định kết nạp.
Thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng, được nhân dân tín nhiệm
Ngoài việc bắt buộc phải đáp ứng các điều kiện trên, trong quá trình xem xét kết nạp người vào đảng còn phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Bồi dưỡng nhận thức về Đảng:
Người vào Đảng phải học lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng, có giấy chứng nhận do trung tâm chính trị cấp huyện hoặc tương đương cấp; nơi không có trung tâm chính trị thì do cấp ủy có thẩm quyền kết nạp đảng viên cấp.
Có đơn tự nguyện xin vào Đảng:
Người vào Đảng phải tự làm đơn, trình bày rõ những nhận thức của mình về mục đích, lý tưởng của Đảng, về động cơ xin vào Đảng.
Báo cáo trung thực lý lịch với chi bộ:
Người vào Đảng tự khai lý lịch, đầy đủ, rõ ràng, trung thực theo quy định, chịu trách nhiệm về nội dung đã khai; nếu có vấn đề nào không hiểu và không nhớ chính xác thì phải báo cáo với chi bộ.
Lý lịch phải được cấp ủy cơ sở thẩm tra, kết luận trước khi ghi nội dung chứng nhận, ký tên, đóng dấu.
Được hai đảng viên chính thức giới thiệu:
Nơi có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người vào Đảng trong độ tuổi thanh niên phải là đoàn viên, được ban chấp hành đoàn cơ sở và một đảng viên chính thức giới thiệu.
Ở các cơ quan, doanh nghiệp nơi không có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người vào Đảng phải là đoàn viên công đoàn, được ban chấp hành công đoàn cơ sở và một đảng viên chính thức giới thiệu.
Như vậy, khi mỗi quần chúng được đứng trong đội ngũ Đảng viên, đó không chỉ là niềm vinh dự và tự hào của cá nhân họ mà là niềm tự hào của gia đình, hơn nữa, càng khẳng định vị thế và tôn nghiêm của Đảng trước công chúng. Đảng là một tổ chức chính trị xã hội, lãnh đạo nước ta tiến lên, điều này được khẳng định qua gần 40 năm kể từ khi đất nước đổi mới. Do đó, mỗi quần chúng khi được trở thành Đảng viên đều rất trân trọng và tự hào.
1.2. Lợi ích của việc vào Đảng:
Điều lệ Đảng tại Điều 3 cũng có quy định về quyền lợi của Đảng viên. Theo đó, Đảng viên có những quyền lợi sau:
– Được tiếp cận các thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng.
– Được quyền ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
– Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời
– Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình.
Ngoài những quyền lợi được quy định như trên, Đảng viên chính thức còn có quyền lợi giới thiệu người vào Đảng khi cùng công tác, học tập và lao động cùng ở nơi cư trú với người được giới thiệu ít nhất 12 tháng.
2. Quyền lợi khác nhau giữa Đảng viên chính thức và dự bị?
2.1. Thế nào là Đảng viên chính thức?
Căn cứ tại điều 5 Điều lệ Đảng như sau:
– Sau khi được kết nạp vào Đảng, người được kết nạp phải trải qua một thời gian dự bị mười hai tháng, tính từ ngày chi bộ tổ chức lễ kết nạp. Khoảng thời gian thử thách đó, Đảng viên dự bị tiếp tục học tập và rèn luyện phẩm chất đạo đức.
– Khi hết thời kỳ dự bị nêu trên, chi bộ tổ chức xét công nhận đảng viên chính thức từng người một và biểu quyết như khi xét kết nạp; nếu đảng viên không đủ tư cách thì đề nghị lên cấp uỷ có thẩm quyền quyết định xoá tên trong danh sách đảng viên dự bị.
Như vậy, Đảng viên sau khi phù hợp đầy đủ các điều kiện được kết nạp vào Đảng thì làm Đảng viên dự bị trong mười hai tháng, đây là thời gian để Đảng viên dự bị học hỏi và rèn luyện thêm. Sau khi kết thúc mười hai tháng dự bị, nếu được chi bộ xét công nhận đảng viên chính thức thông qua thì sẽ trở thành Đảng viên chính thức.
2.2. Thế nào là Đảng viên dự bị?
Đảng viên dự bị là Đảng viên sau khi được kết nạp vào Đảng phải trải qua mười hai tháng dự bị, học hỏi và rèn luyện thêm để đầy đủ tư cách để chi bộ xét công nhận đảng viên chính thức thông qua.
2.3. Quyền lợi khác nhau giữa Đảng viên chính thức và dự bị?
– Về quyền lợi:
+ Theo như quy định tại Điều 3 Điều lệ Đảng thì Đảng viên dự bị không có quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng.
+ Đảng viên chính thức có đầy đủ quyền của một Đảng viên.
– Về kỷ luật:
+ Đảng viên dự bị sẽ bị khiển trách, cảnh cáo
+ Đảng viên chính thức sẽ bị khiển trách, cảnh cáo, cách chức thậm chí là khai trừ.
– Về thử thách:
+ Đảng viên dự bị phải trải qua mười hai tháng dự bị tính từ ngày chi bộ tổ chức lễ kết nạp
+ Đảng viên chính thức: không có quy định cụ thể
3. Vào Đảng được đi nước ngoài không?
Theo Quy định số 228-QĐ/TW ngày 7-2-2014 của Ban Bí thư về nhiệm vụ của đảng viên và công tác quản lý đảng viên ở nước ngoài thì Đảng viên có thể đi nước ngoài. Tuy nhiên, việc ra nước ngoài của Đảng viên phải tuân thủ những quy định chặt chẽ theo quy định này. Cụ thể:
– Cán bộ, đảng viên khi đi công tác, học tập, trao đổi kinh nghiệm, tham quan, du lịch, chữa bệnh hay có nhu cầu về việc riêng tại nước ngoài đều phải chấp hành nghiêm chỉnh Quy định số 57-QĐ/TW, ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị (khóa X) về một số vấn đề bảo vệ chính trị nội bộ Đảng và Quy định số 228-QĐ/TW, ngày 07/02/2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) về nhiệm vụ của đảng viên và công tác quản lý đảng viên ở nước ngoài.
– Các cấp ủy, tổ chức đảng phải có trách nhiệm chọn cử, đề xuất, giải quyết và quản lý cán bộ, đảng viên đi công tác, học tập ở nước ngoài theo thẩm quyền quản lý và phải đảm bảo xuất phát từ yêu cầu cần thiết, đúng đối tượng, đúng mục đích, bảo đảm hiệu quả thiết thực.
– Đối với các trường hợp đang bị điều tra về hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm tư cách đảng viên, có vấn đề liên quan đến chính trị hiện nay nhưng chưa được cơ quan có thẩm quyền kết luận, đảng viên đang trong thời kỳ xem xét kỷ luật đảng thì các cấp ủy, tổ chức đảng tuyệt đối không được cử hoặc cho phép ra nước ngoài cho dù có vì bất cứ lý do gì.
4. Trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức sau khi ra nước ngoài:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 5 quy định Quy định số 228-QĐ/TW:
– Phải chấp hành nghiêm Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, các quy định hiện hành của Đảng, Nhà nước, pháp luật của Việt Nam và nứớc sở tại về xuất cảnh, nhập cảnh và các quy định khác có liên quan. Trong quan hệ giao tiếp với tổ chức, cá nhân người nước ngoài cần cẩn trọng, không làm phương hại đến lợi ích đất nước và an ninh quốc gia. Đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức có trách nhiệm bảo mật trong tiếp xúc, làm việc trực tiếp với người nƣớc ngoài: Không được tiết lộ thông tin về dự kiến chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, an ninh, quốc phòng; tình hình tổ chức, cán bộ; số liệu mật của Đảng, Nhà nứớc và của tỉnh; những vấn đề khác không liên quan đến nhiệm vụ được giao.
– Không mang tài liệu mật và tài liệu chưa được phép lưu hành của Đảng, Nhà nước ra nước ngoài. Trường hợp được cơ quan có thẩm quyền cho phép, phải chấp hành nghiêm chế độ bảo quản, sử dụng tài liệu mật, không để lộ, lọt ra nước ngoài. Khi về nước phải giao lại và báo cáo đầy đủ việc quản lý, sử dụng tài liệu mật trong thời gian ở nước ngoài.
– Đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức ra nước ngoài nếu đi theo đoàn không được tự ý tách đoàn. Nếu đột xuất, cần thiết phải tách đoàn để giải quyết công việc riêng phải báo cáo, xin ý kiến của Trưởng đoàn (báo cáo phải nêu rõ nội dung, lý do của việc tách đoàn).
– Phải luôn nâng cao cảnh giác, chủ động phòng ngừa và đấu tranh với những hoạt động thu thập tình báo, chia rẽ, lôi kéo, chống phá của các lực lượng phản động lưu vong và các thế lực thù địch. Khi phát hiện các biểu hiện hoạt động mua chuộc, móc nối, lôi kéo, chống phá Đảng và Nhà nước ta, phải kịp thời báo cáo với Trưởng đoàn (nếu đi theo đoàn), với cấp ủy, tổ chức đảng quản lý trực tiếp và cơ quan đại diện của ta ở nước sở tại.
– Khi hết thời hạn ở nước ngoài đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức muốn ở lại thêm phải báo cáo và đƣợc sự đồng ý bằng văn bản của cơ quan quản lý trực tiếp trong nước; đồng thời phải báo cáo và được cấp ủy, trưởng cơ quan đại diện Việt Nam ở nước sở tại cho phép gia hạn.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Điều lệ Đảng 2011;
– Quy định số 228-QĐ/TW ngày 7-2-2014 của Ban Bí thư về nhiệm vụ của đảng viên và công tác quản lý đảng viên ở nước ngoài