Như chúng ta có thể thấy, trên thực tế có rất nhiều những vụ án hình sự xảy ra với nhiều những yếu tố tác động dẫn đến những hành vi vi phạm có thể là do một người gây ra, 2 người gây ra hoặc có thể là một tổ chức liên kết với nhau. Cùng tìm hiểu bài viết tham khảo dưới đây để hiểu biết thêm về trách nhiệm của đồng phạm trong vụ án hình sự.
Mục lục bài viết
1. Đồng phạm là gì?
Trong lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam, chế định đồng phạm đã xuất hiện từ rất sớm. Bắt đầu từ những nguyên tắc trừng trị tội phạm ghi nhận tại Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) triều đại nhà Lê (1428–1788): “Nhiều người cùng phạm một tội thì lấy người khởi xướng làm đầu, người a tòng được giảm một bậc. Nếu tất cả người trong một nhà cùng phạm tội, chỉ bắt người tôn trưởng”. Chế định đồng phạm tiếp tục được hình thành, xây dựng và phát triển gắn với hệ thống PLHS theo chiều dài lịch sử của đất nước. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, chế định đồng phạm vẫn chưa có quy định về khái niệm pháp lý, chỉ mới được xem xét ở một số khía cạnh, nhưng cũng được ghi nhận ở nhiều văn bản pháp luật. Có thể kể đến Điều 2 Sắc lệnh số 27–SL ngày 28/02/1946 về truy tố các tội bắt cóc, tống tiền, ám sát quy định: “Những người tòng phạm hoặc ca trữ tang vật của tội phạm trên cũng bị phạt như chính phạm”.
Tính đồng phạm được nhắc đến trong nguyên tắc trừng trị tội phạm: “Nghiêm trị bọn chủ mưu, cầm đầu, bọn ngoan cố; khoan hồng đối với những người bị lừa phỉnh, bị ép buộc, lầm đường”[14, tr 1930 tại các Sắc lệnh số 133–SL ngày 20/01/1953 trừng trị những tội phạm đến an toàn nhà nước, đối nội và đối ngoại, Sắc lệnh số 267 SL ngày 15/6/1956 trừng trị những âm mưu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã, của nhân dân làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch nhà nước.
Tại báo cáo tổng kết công tác ngành
Song song với sự phát triển của khoa học luật hình sự, khái niệm về đồng phạm được hoàn chỉnh dần theo thời gian. Khái niệm pháp lý của đồng phạm lần đầu tiên được ghi nhận tại khoản 1 Điều 17 BLHS năm 1985 là “Hai hoặc nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là đồng phạm”. Trải qua hai lần pháp điển hoá PLHS tiếp theo, khoản 1 Điều 17 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 hiện hành tiếp tục quy định “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”.
Cơ quan lập pháp của Nhà nước ta đã đề cao tính khoa học và khách quan trong xây dựng khái niệm đồng phạm. Khái niệm này xuất phát từ lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin về tội phạm: Tội phạm là một thể thống nhất giữa hai yếu tố khách quan và chủ quan. Nếu như mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan thì mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong thể hiện trạng thái tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và đối với hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi đó gây ra. Qua thời gian nghiên cứu, học viên nhận thấy hầu hết các nhà khoa học, cơ quan lập pháp khi xây dựng khái niệm pháp lý về đồng phạm đều có quan điểm tiếp cận trên cơ sở trung hòa giữa hai phương diện mặt khách quan và mặt chủ quan, từ đó phân tích và đưa ra những kết luận về đặc điểm cơ bản, đặc trưng của đồng phạm.
Theo nghiên cứu của TSKH.GS Lê Văn Cảm, tội phạm đã thực hiện có đồng phạm khi mặt khách quan của tội phạm đó thể hiện như sau:
Thứ nhất, phải có sự cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm của từ 02 người trở lên (với điều kiện tất cả những người này đều phải có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS).
Thứ hai, những người đồng phạm phải cùng chung hành động, tức là hành vi của mỗi người trong số họ đều nhằm thực hiện tội phạm, hoặc góp phần thực hiện tội phạm chung. Thứ ba, phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội của mỗi người với hậu quả phạm tội chung xảy ra. Về mặt chủ quan, có đồng phạm là phải có sự cùng cố ý của tất cả những người phạm tội cùng tham gia vào thực hiện tội phạm. Họ (những người đồng phạm) đều phải biết được hoạt động phạm tội của mỗi người (hoặc ít nhất là của một số người trong số họ). Họ đều ý thức được rằng, bằng hành vi phạm tội của mình cùng với các hành vi phạm tội của những người khác góp phần thực hiện tội phạm. Họ cũng mong muốn hoặc cùng có ý thức để mặc cho hậu quả chung nguy hiểm cho xã hội xảy ra. Sự thỏa thuận, bàn bạc kế hoạch phạm tội, phân công vai trò diễn ra ở đồng phạm từ đơn giản đến phức tạp và đạt đến mức độ chặt chẽ nhất ở phạm tội có tổ chức – hình thức đồng phạm đặc biệt. Đúc kết lại, TSKH.GS Lê Văn Cảm đã xây dựng khái niệm khoa học của đồng phạm: Đồng phạm là hình thức phạm tội do cố ý được thực hiện với sự cố ý cùng tham gia của 02 người trở lên.
Trong nghiên cứu của GS.TS Lê Thị Sơn, đồng phạm được coi là trường hợp phạm tội đặc biệt của các tội phạm cố ý. Sự đặc biệt này của đồng phạm được chứng minh qua việc phân tích các dấu hiệu về mặt khách quan và mặt chủ quan. Xét mặt khách quan, số người tham gia của đồng phạm phải từ hai người trở lên. Những người này phải có đặc điểm thỏa mãn các dấu hiệu chung của chủ thể của tội phạm (đạt độ tuổi chịu TNHS và không ở trong tình trạng không có năng lực TNHS). Người nào trực tiếp thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong CTTP cụ thể thì người đó còn phải có đặc điểm riêng của chủ thể trong CTTP đó. Những người này cùng thực hiện một tội phạm,
biểu hiện là cùng thực hiện hành vi khách quan hoặc cùng tham gia thực hiện hành vi khách quan. Xét mặt chủ quan, đồng phạm đòi hỏi dấu hiệu cùng cố ý (của từ hai người trở lên). Cùng cố ý được xét trên hai mặt lý trí và và ý chí của những người tham gia. Về lý trí họ nhận thức được hành vi của mình và cả hành vi của người tham gia khác là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và hậu quả của tội phạm chung. Về ý chí, họ cũng mong muốn thực hiện tội phạm chung và cũng mong muốn hoặc cũng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Nếu đồng phạm một tội phạm có CTTP đòi hỏi mục đích là dấu hiệu bắt buộc thì những người này còn phải có cùng mục đích khi thực hiện hành vi phạm tội.
Có thể thấy, khái niệm pháp lý của đồng phạm đã đạt được có sự thống nhất cao và không có vướng mắc trong lý luận khoa học luật hình sự. Ở luận văn thạc sĩ này, học viên đưa ra khái niệm đồng phạm trên phương diện khoa học pháp lý theo quan điểm của cá nhân như sau: Đồng phạm là hình thức phạm tội do hai chủ thể trở lên cố ý cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm.
Theo đó, đồng phạm đòi hỏi phải có những dấu hiệu phản ánh mối liên hệ về mặt khách quan và chủ quan giữa những người cùng tham gia thực hiện tội phạm. Mặt khách quan và mặt chủ quan cũng có thể gọi là dấu hiệu pháp lý của đồng phạm. Trong đó, dấu hiệu khách quan bao gồm cả dấu hiệu chủ thể của tội phạm.
Dấu hiệu khách quan thứ nhất là đồng phạm đòi hỏi có hai người trở lên và những người này có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm, tức là đều phải có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện một hành vi phạm tội cụ thể. Trong vụ án có nhiều người tham gia thực hiện, nếu chỉ có một người thỏa mãn các điều kiện của chủ thể của tội phạm còn người khác hoặc những người khác không thỏa mãn các điều kiện của chủ thể của tội phạm thì vụ án đó không có đồng phạm. Trường hợp này được coi như trường hợp phạm tội riêng lẻ. Nếu có hai người trở lên thỏa mãn các điều kiện chủ thể của tội phạm và các dấu hiệu khác của đồng phạm, còn những người khác không thỏa mãn các dấu hiệu của chủ thể của tội phạm, thì vụ án đó vẫn được xác định là có đồng phạm. Người nào không thỏa mãn dấu hiệu chủ thể của tội phạm thì không được coi là đồng phạm.
Dấu hiệu khách quan thứ hai của đồng phạm là cùng tham gia thực hiện tội phạm. Các đồng phạm cùng tham gia thực hiện một tội phạm có nghĩa là, tất cả những người đồng phạm phải có hành vi tham gia vào việc thực hiện một tội phạm (do cố ý). Cùng thực hiện tội phạm được hiểu là hành vi của mỗi người đều nhằm thực hiện tội phạm hoặc góp phần thực hiện tội phạm – “Có sự chung hành động (hay liên hiệp hành động) của những người tham gia vào việc thực hiện một tội phạm”. Hành vi của người này có thể hỗ trợ hay bổ sung và là điều kiện cho hành vi của người khác, có ảnh hưởng tác động đến hành vi đó, làm cho nó có hiệu quả hơn. Người nào mặc dù thực hiện hành vi liên quan đến tội phạm nhưng không phải là hành vi cùng tham gia thực hiện thì không phải là hành vi đồng phạm mà chỉ có thể cấu thành những tội độc lập theo luật định.
Trong đồng phạm, có thể có đủ bốn loại hành vi: hành vi thực hành, hành vi tổ chức, hành vi xúi giục, hành vi giúp sức, nhưng cũng có thể không có đủ cả bốn loại hành vi trong một vụ đồng phạm. Hành vi thực hành là hành vị chủ chốt, thiếu hành vi tổ chức, hành vi xúi giục, hành vi giúp sức, đồng phạm vẫn có thể xảy ra, nhưng thiếu hành vi thực hành thì không có đồng phạm. Một người đồng phạm có thể tham gia thực hiện tội phạm với một loại hành vi nhưng cũng có thể tham gia với nhiều loại hành vi khác nhau. Họ có thể tham gia tội phạm từ đầu nhưng cũng có thể tham gia khi tội phạm đã xảy ra nhưng chưa kết thúc. Bằng việc tham gia vào một tội phạm với ít nhất một trong bốn hành vi, mỗi người đồng phạm đều thực hiện hành vi nguy hiểm trong mối liên kết thống nhất với nhau.
Hành vi của người này hỗ trợ, bổ sung cho hành vi của người kia và ngược lại. Hành vi của mỗi người là bộ phận, một khâu của hoạt động phạm tội chung nhằm thực hiện một tội phạm nhất định để thu được kết quả phạm tội chung thống nhất. Hành vi của mỗi người đồng phạm có mối quan hệ nhân quả với hậu quả chung của tội phạm. Nói theo cách khác, hậu quả chung của tội phạm là kết quả chung từ hoạt động của những người tham gia vào việc thực hiện tội phạm mang lại. Hành vi của người thực hành hoặc của những người đồng thực hành là nguyên nhân trực tiếp phát sinh hậu quả, còn hành vi của người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức thông qua hành vi của người thực hành mà dẫn đến hậu quả.
Khi xem xét vai trò của từng người đồng phạm trong mối quan hệ với những người đồng phạm khác và với vụ án có đồng phạm đó, chúng ta cần phải xác định những yếu tố sau đây: (1) Hành vi của người đồng phạm đó đã ảnh hưởng tới hành vi của những người đồng phạm khác như thế nào và ngược lại; (2) Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của người đồng phạm với hậu quả chung của tội phạm; (3) Mức độ tham gia của người đồng phạm đối với hoạt động phạm tội chung.
Dấu hiệu chủ quan của đồng phạm thể hiện trước hết ở sự cùng cố ý của những người tham gia thực hiện một tội phạm. Nếu thiếu dấu hiệu cùng cố ý, thì hành vi của những người phạm tội dù có thỏa mãn dấu hiệu khách quan như đã trình bày ở trên, thì vẫn không có đồng phạm mà chỉ là hình thức nhiều người cùng phạm một tội. Sự cùng cố ý thể hiện sự liên kết thống nhất về mặt chủ quan giữa những người đồng phạm. Tâm lý của những người đồng phạm có mối liên hệ, tác động tương hỗ và ảnh hưởng lẫn nhau. Khi thực hiện tội phạm, đòi hỏi mỗi người đồng phạm không chỉ cố ý với hành vi của mình mà còn mong muốn và nhận thức được sự cố ý của những người đồng phạm khác.
Tất cả những người đồng phạm đều có lỗi cố ý khi thực hiện tội phạm, “Nếu chỉ biết mình có hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội mà không biết người khác cũng có hành vi như vậy với mình thì chưa thoả mãn dấu hiệu lỗi cố ý trong đồng phạm và do vậy không có đồng phạm”. Mặt chủ quan của tội phạm thể hiện trên hai mặt lý trí và ý chí của người phạm tội. Bởi vậy, về mặt lý trí, sự cùng cố ý đòi hỏi mỗi người đồng phạm phải nhận thức được: (1) tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình. (2) nhận thức được người khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với mình (ít nhất một người). (3) thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình cũng như hậu quả chung của tội phạm mà họ tham gia thực hiện.
Về mặt ý chí, đòi hỏi những người đồng phạm cùng mong muốn có hoạt động phạm tội chung và cùng mong muốn hoặc cùng có ý thức để mặc cho hậu quả phát sinh. Dấu hiệu này phản ánh ý muốn (mong muốn), nguyện vọng của những người thực hiện tội phạm đối với hành vi của những người đồng phạm khác và đối với hậu quả chung nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Trường hợp nào không mong muốn có sự liên kết hành vi để cùng gây ra hậu quả chung thì không phải là đồng phạm.
Trong thực tiễn, việc phân biệt các dấu hiệu thuộc về lý trí với các dấu hiệu thuộc về ý chí trong mặt chủ quan của đồng phạm chỉ là tương đối, khó mà rạch ròi được. Đôi khi, với những biểu hiện của lý trí đã rõ ràng không cần phải làm rõ thêm dấu hiệu của ý chí, và không phải lúc nào cũng cần máy móc, bắt buộc làm rõ đủ cả hai yếu tố này. Mỗi người phạm tội đều thấy trước tính tất yếu gây ra hậu quả cho xã hội của hành vi mà mình đã thực hiện, cũng như hành vi của người khác nhưng họ vẫn thực hiện, họ đương nhiên đều có chung ý chí mong muốn cho hậu quả chung của tội phạm xảy ra.
Trong trường hợp tội phạm được thực hiện có dấu hiệu mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP, đồng phạm đòi hỏi tất cả những người đồng phạm đều có chung mục đích mà CTTP phản ánh, hoặc biết rõ, nhận thức được mục đích đó. Nếu người nào không có dấu hiệu này thì không phải là đồng phạm mà CTTP riêng lẻ. “Được coi là cùng mục đích phạm tội, khi người tham gia cùng có chung mục đích được phản ánh trong cấu thành tội phạm cụ thể hoặc biết rõ và tiếp nhận mục đích đó”.
Về dấu hiệu chủ thể của tội phạm, hầu hết các nghiên cứu đều xem xét trong mặt khách quan của đồng phạm. Theo quan điểm của học viên, dấu hiệu chủ thể của tội phạm trong đồng phạm có thể được tách riêng. Để có thể được coi là đồng phạm, điều kiện đầu tiên về chủ thể là phải có sự tham gia của hai người trở lên và những người này đều phải đủ điều kiện là chủ thể của tội phạm. Nếu thiếu dấu hiệu về số lượng người tham gia thực hiện tội phạm thì tất nhiên không có đồng phạm, mà chỉ là trường hợp phạm tội riêng lẻ. Đủ điều kiện về chủ thể của tội phạm nghĩa là đủ tuổi chịu TNHS theo luật định (Điều 12 BLHS) và không ở trong tình trạng không có năng lực TNHS (Điều 21 BLHS).
Dấu hiệu chủ thể của tội phạm trong đồng phạm, theo học viên, cần được nghiên cứu xem xét một cách độc lập bởi chủ thể của tội phạm theo luật định hiện nay là người – cá nhân và pháp nhân thương mại. Do đó mà học viên sử dụng từ “chủ thể” khi đưa ra khái niệm pháp lý về đồng phạm nêu trên, không chỉ dừng lại ở việc sử dụng từ “người theo định nghĩa của BLHS hiện hành quy định tại khoản 1 Điều 17. Khoản 2 Điều 2 BLHS quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự:
“2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự.”
Khoản 1 Điều 8 BLHS hiện hành quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện...”
BLHS hiện hành đã quy định vấn đề TNHS của pháp nhân thương mại với 33 tội danh được liệt kê tại Điều 76 BLHS. Học viên xác định một vấn đề mới và cấp thiết được đặt ra trong khoa học luật hình sự là đồng phạm của pháp nhân thương mại. Trong nghiên cứu cũng như thực tế áp dụng pháp luật đặt ra nhiều câu hỏi lớn là có hay không có đồng phạm giữa pháp nhân với với pháp nhân? giữa cá nhân với pháp nhân?.
Về điều kiện chủ thể của tội phạm, pháp nhân thương mại đó phải là tổ chức được thành lập hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam, có điều kiện, tiêu chí cụ thể. Một pháp nhân thương mại chỉ bị truy cứu TNHS khi có đủ 04 căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 75 BLHS là: hành vi phạm tội thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại; vì lợi ích của pháp nhân thương mại; thực hiện khi có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 BLHS. Về nguyên tắc, khi thỏa mãn các dấu hiệu khách quan và chủ quan trong đồng phạm, thì tất cả các hành vi phạm tội triển khai thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của pháp nhân; hành vi giúp đỡ, tạo điều kiện cần thiết nhằm hỗ trợ cho pháp nhân thương mại thực hiện tội phạm đều được coi là đồng phạm. Hành vi của cá nhân, pháp nhân này giúp đỡ cho pháp nhân khác thực hiện tội phạm thỏa mãn CTTP tội danh mà pháp nhân đang bị xử lý hoặc có thể thoả mãn một CTTP của một tội danh khác.
2. Trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm:
Việc xác định trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm được thực hiện như sau:
Một mặt phải căn cứ vào những nguyên tắc chung được áp dụng cho tất cả những trường hợp phạm tội, mặt khác phải tuân thủ những nguyên tắc có tính đặc thù.
– Thứ nhất, những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm mà chúng cùng thực hiện;
Điều 17 BLHS năm 2015 quy định trong vụ án đồng phạm phải có từ hai người trở lên, những người này đều phải có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Những người trong vụ án đồng phạm phải cùng nhau thực hiện một tội phạm. Hành vi của người đồng phạm này liên kết chặt chẽ với hành vi của người đồng phạm kia. Hành vi của những người đồng phạm phải hướng về một tội phạm, phải tạo điều kiện, hỗ trợ cho nhau để thực hiện một tội phạm thuận lợi, nói cách khác hành vi của đồng phạm này là tiền đề cho hành vi của đồng phạm kia.
Hậu quả tác hại do tội phạm gây ra trong vụ án đồng phạm là hậu quả chung do toàn bộ những người đồng phạm gây ra. Hành vi của mỗi người trong vụ án đều là nguyên nhân gây ra hậu quả chung ấy, mặc dù có người trực tiếp, người gián tiếp gây ra hậu quả tác hại
– Thứ hai, khi xác định trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm cần tuân thủ nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự, những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm độc lập về việc đã cùng thực hiện tội phạm.
Những người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của những người đồng phạm khác mà trước đó không có sự bàn bạc và thống nhất với nhau cũng như không có sự tiếp nhận mục đích của nhau. Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, miễn trách nhiệm hình sự…được áp dụng riêng đối với từng người phạm tội.
3. Để thoả mãn vấn đề đồng phạm cần có những điều kiện nào?
Khoản 1 Điều 20 Bộ luật hình sự có quy định: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Theo quy định này, để thoả mãn vấn đề đồng phạm cần có những điều kiện sau đây:
Thứ nhất: phải từ hai người trở lên, những người này phải có đủ dấu hiệu về chủ thể của tội phạm. Đây là điều kiện về năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Thứ hai: cố ý cùng thực hiện một tội phạm, tức là mỗi người trong đồng phạm đều có hành vi tham gia vào thực hiện tội phạm, hành vi của mỗi người được thực hiện không biệt lập nhau mà trong sự liên kết với nhau, hành vi của người này hỗ trợ, bổ sung cho hành vi của người khác và ngược lại, hành vi phạm tội của mỗi người đều nằm trong hoạt động phạm tội của cả nhóm, với mục đích chung là đạt được kết quả thực hiện tội phạm. Vì vậy, sẽ không được coi là đồng phạm khi một số người đã cùng thực hiện một tội phạm và cùng một thời gian, nhưng giữa những người này không có sự bàn bạc, liên hệ, ràng buộc, hỗ trợ nhau mà hành vi của từng người đều thực hiện độc lập.
Việc cùng thực hiện tội phạm có thể là trực tiếp thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm (người thực hành), thực hiện hành vi chủ mưu, chỉ huy, cầm đầu việc thực hiện tội phạm (người tổ chức), người thực hiện hành vi kích động, dụ dỗ, xúi giục người khác thực hiện tội phạm (người xúi giục); tạo điều kiện tinh thần hay vật chất cho người khác thực hiện tội phạm (người giúp sức). Nếu không có một trong những hành vi nêu trên thì không thể được coi là người cùng thực hiện và do vậy cũng không thể là người đồng phạm.
Khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, mỗi người đồng phạm không chỉ cố ý với hành vi phạm tội của mình mà còn biết và mong muốn sự cùng tham gia của những người đồng phạm khác. Cùng cố ý trong đồng phạm được thể hiện trên hai phương diện về lý trí và ý chí. Về lý trí: mỗi người đồng phạm đều nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi của mình, nhận thức được tính chất nguy hiểm của những người đồng phạm khác, thấy trước được việc gây ra hậu quả chung của hành vi phạm tội đó. Về ý chí: những người đồng phạm khi thực hiện hành vi đều mong muốn cùng thực hiện tội phạm và mong muốn hậu quả chung của tội phạm xảy ra.
Trong khoa học Luật hình sự, căn cứ vào các đặc điểm về mặt chủ quan và khách quan của tội phạm đồng phạm được chia ra nhiều hình thức: đồng phạm có thông mưu trước, đồng phạm không có thông mưu trước; đồng phạm giản đơn và đồng phạm phức tạp. Chỉ trên cơ sở nắm vững các hình thức đồng phạm, đặc điểm đồng phạm mới vận dụng tốt khi giải quyết vụ án. Tuy vậy, thực tiễn công tác điều tra, truy tố và xét xử cho thấy nhận thức về đồng phạm hiện nay chưa được thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, vẫn còn nhiều quan điểm và ý kiến trái ngược nhau. Những ý kiến khác nhau này đã gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.
Đồng phạm không phải là tình tiết tăng nặng, cũng không phải là tình tiết định khung hình phạt, nhưng trong một số trường hợp, đồng phạm có ý nghĩa rất lớn đến việc xác định có dấu hiệu của tội phạm hay không. Thậm chí nếu giữa những người phạm tội trước đó có sự câu kết chặt chẽ, đề ra kế hoạch và định phương hướng hành động cụ thể, phân công công việc cho từng người, bàn bạc kỹ lưỡng thì theo nhóm ý kiến thứ nhất cũng không được coi là “phạm tội có tổ chức” vì “phạm tội có tổ chức” trước hết phải thoả mãn điều kiện đồng phạm, nếu các đối tượng bị xử lý ở những tội danh khác nhau thì đồng phạm bị phá vỡ, còn nhóm ý kiến thứ hai thì vẫn cho rằng đồng phạm. Từ những vấn đề nêu trên cho thấy việc xác định đồng phạm có ý nghĩa và tầm quan trọng rất lớn cả về lý luận và thực tiễn trong điều tra, truy tố, xét xử.
Như vậy trong trường hợp giữa những người phạm tội có sự bàn bạc thống nhất hành động hoặc giữa những người này tuy chưa có sự bàn bạc, thống nhất nhưng đã hiểu và tiếp nhận mục đích của nhau thì đó là đồng phạm. Vấn đề có cần phải cùng một tội danh hay không theo chúng tôi không nên đặt ra, chỉ cần cùng hành vi phạm tội và cùng mong muốn hậu quả chung xảy ra tức là cố ý cùng thực hiện tội phạm là đã thỏa mãn yếu tố đồng phạm.