Hàng hóa được ưu đãi là gì? Ưu đãi đối với hàng hóa trong nước?
Đấu thầu là một hoạt động điển hình của nền kinh tế thị trường, nó tuân theo các quy luật khách quan của thị trường như quy luật cung- cầu, quy luật giá cả- giá trị và các quy luật khác.Thông qua hoạt động đấu thầu, Bên mời thầu có nhiều cơ hội để lựa chọn những nhà thầu phù hợp với mình, mang lại hiệu quả cao nhất với giá cả cạnh tranh nhất. Đối tượng của đấu thầu rất đa dạng, đó là đấu thầu cung cấp hàng hóa, cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, xây lắp.
Hàng hóa được ưu đãi hay ưu đãi đối với hàng hóa trong nước là những cụm từ được nhắc đến trong quá trình lựa chọn nhà thầu, đây là cơ sở để nhà thầu được hưởng các “quyền lợi đặc biệt hơn so với các nhà thầu khác” trong việc tiếp cận đối với bên mời thầu.
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Cơ sở pháp lý:
Luật Đấu thầu năm 2013
Nghị định 63/2014/NĐ-CP hướng dẫn Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu
Mục lục bài viết
1. Hàng hóa được ưu đãi là gì?
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về đấu thầu, theo từ điển bách khoa Việt Nam (Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam biên soạn, xuất bản năm 1995) “Đấu thầu là phương thức giao dịch đặc biệt,theo đó người muốn xây dựng một công trình (người gọi thầu) công bố trước các yêu cầu và điều kiện xây dựng một công trình để người nhận xây dựng công trình (người dự thầu) công bố giá mà mình muốn nhận. Người dự thầu sẽ lựa chọn người chủ thầu nào phù hợp với điều kiện của mình với giá thấp hợp lý. Phương thức đấu thầu được áp dụng tương đối phổ biến trong việc mua sắm tài sản xây dựng các công trình tư nhân và nhà nước.
Thuật ngữ “hàng hóa” từ trước đến nay dưới góc độ pháp lý hay thực tiễn đều được sử dụng khá phổ biến, đó là những sản phẩm lao động của con người, được tạo ra nhằm mục đích trao đổi để thoả mãn nhu cầu của con người. Hàng hoá có thể là vật, là sức lao động của con người, là các quyền tài sản. Khoản 2, Điều 3 năm Luật Thương mại 2005 đã mở rộng hàng hoá hơn. Theo đó hàng hoá bao gồm tất cả các động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai, và các vật gắn liền với đất đai. Tuy nhiên, khái niệm về hàng hoá vẫn còn sự hạn chế, chúng ta dễ dàng nhận thấy trong quy định này hàng hoá chỉ bao gồm các loại tài sản hữu hình. Như vậy, các loại tài sản vô hình khác như quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ… chưa được thừa nhận là hàng hoá.
Đấu thầu cũng là một hình thức mua bán hàng hóa nhưng lại có tính chất đặc biệt, vừa chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự, thương mại và pháp luật đấu thầu, ở đó, chỉ có một bên mời thầu là “bên mua” và nhiều bên dự thầu (bên bán). trong đó người mua (thường được gọi là bên mời thầu) lựa chọn được người bán tốt nhất một cách
công khai theo một quy trình nhất định. Trong đấu thầu, ta thấy nổi bật nên tính cạnh tranh của những nhà dự thầu hay những người bán. Trước đây, khi nền kinh tế Việt Nam còn trong chế độ bao cấp, người bán chỉ sản xuất và bán những gì mình có mà không quan tâm đến nhu cầu của người mua, của thị trường. Do đó, người mua không có quyền được lựa chọn cho mình những hàng hóa phù hợp. Chỉ đến khi nền kinh tế Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì tính cạnh tranh xuất hiện, khái niệm về đấu thầu cũng dần được hình thành và được chấp nhận như một điều tất yếu. Hàng hóa ở trong đấu thầu được quy định gói gọn hơn so với hàng hóa thông thường.
Theo Quy định mẫu về đấu thầu mua sắm hàng hóa của Liên Hợp quốc (UNCITRIAL) hàng hóa được hiểu: “tất cả các vật thể mô tả được bao gồm cả nguyên vật liệu thô, sản phẩm, các thiết bị, các vật thể định hình hoặc dưới dạng lỏng, điện và dịch vụ phụ đi kèm hàng hóa nhưng có giá trị thấp hơn hàng hóa (bao gồm: các loại hàng hóa khác theo quy định của từng nước)” (Điều 2, khoản c). Trên cơ sở quy định này, Luật Đấu thầu Việt Nam hiện hành đưa ra khái niệm hàng hóa bằng cách thức liệt kê, bao gồm: máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, vật tư, phụ tùng; hàng tiêu dùng; thuốc, vật tư y tế dùng cho các cơ sở y tế. Hàng hóa mua bán thông qua hình thức đấu thầu thường có giá trị lớn, số lượng nhiều hoặc có yêu cầu khắt khe về kỹ thuật.
Cụm từ “hàng hóa được ưu đãi” xuất hiện dựa trên nền tảng, quy định tại Khoản 1, Điều 14, Luật Đấu thầu về ưu đãi trong lựa chọn nhà thầu, theo đó: “Nhà thầu được hưởng ưu đãi khi tham gia đấu thầu trong nước hoặc đấu thầu quốc tế để cung cấp hàng hóa mà hàng hóa đó có chi phí sản xuất trong nước chiếm tỷ lệ từ 25% trở lên.”
Từ đây, có thể hiểu, hàng hóa được ưu đãi là hàng hóa được bên dự thầu cung cấp có chi phí sản xuất trong nước chiếm tỷ lệ từ 25% trở lên được tính làm căn cứ để nhà thầu được hưởng các điều kiện đặc biệt, quyền lợi tốt hơn so với các nhà thầu khác khi tham gia đấu thầu trong nước hoặc đấu thầu quốc tế. Hàng hóa chỉ được hưởng ưu đãi khi nhà thầu chứng minh được hàng hóa đó có chi phí sản xuất trong nước chiếm tỷ lệ từ 25% trở lên trong giá hàng hóa.
Cần chú ý, việc ưu đãi phải đảm bảo các nguyên tắc: Trường hợp sau khi tính ưu đãi, nếu các hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất xếp hạng ngang nhau thì ưu tiên cho nhà thầu có đề xuất chi phí trong nước cao hơn hoặc sử dụng nhiều lao động địa phương hơn (tính trên giá trị tiền lương, tiền công chi trả). Đồng thời, trường hợp nhà thầu tham dự thầu thuộc đối tượng được hưởng nhiều hơn một loại ưu đãi thì khi tính ưu đãi chỉ được hưởng một loại ưu đãi cao nhất theo quy định của hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu.
2. Ưu đãi đối với hàng hóa trong nước:
Có thể thấy, ưu đãi đối với hàng hóa trong nước là sự quan tâm đặc biệt của nhà nước đối với hàng hóa được sản xuất trong nước, với tiêu chí “người Việt dùng hàng Việt”. Nếu hàng hóa có chi phí sản xuất trong nước chiếm tỷ lệ từ 25% trở lên thì nhà thầu được hưởng các ưu đãi, việc tính ưu đãi được thực hiện trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất để so sánh, xếp hạng hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất theo một trong hai cách sau đây:
Cách 1: Cộng thêm điểm vào điểm đánh giá của nhà thầu thuộc đối tượng được ưu đãi;
Cách 2: Cộng thêm số tiền vào giá dự thầu hoặc vào giá đánh giá của nhà thầu không thuộc đối tượng được ưu đãi.
Quy định về ưu đãi đối với hàng hóa trong nước được thể hiện cụ thể tại Điều 5, Nghị định 63/2014/NĐ-CP, với những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể có trách nhiệm chứng minh hàng hóa được ưu đãi: Hàng hóa chỉ được hưởng ưu đãi khi nhà thầu chứng minh được hàng hóa đó có chi phí sản xuất trong nước chiếm tỷ lệ từ 25% trở lên trong giá hàng hóa.
Thứ hai, công thức tính tỷ lệ % chi phí: Tỷ lệ % chi phí sản xuất trong nước của hàng hóa được tính theo công thức sau đây:
D (%) = G*/G (%)
Trong đó:
– G*: Là chi phí sản xuất trong nước được tính bằng giá chào của hàng hóa trong hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất trừ đi giá trị thuế và các chi phí nhập ngoại bao gồm cả phí, lệ phí;
– G: Là giá chào của hàng hóa trong hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất trừ đi giá trị thuế;
– D: Là tỷ lệ % chi phí sản xuất trong nước của hàng hóa. D ³ 25% thì hàng hóa đó được hưởng ưu đãi theo quy định tại Khoản 2 Điều này.
Thứ ba, cách tính ưu đãi. Tùy thuộc vào các trường hợp áp dụng các phương pháp đánh giá khác nhau mà cách tính ưu đãi cũng có sự khác biệt, cụ thể:
Một là, trường hợp áp dụng phương pháp giá thấp nhất, hàng hóa không thuộc đối tượng được hưởng ưu đãi phải cộng thêm một khoản tiền bằng 7,5% giá dự thầu sau sửa lỗi, hiệu chỉnh sai lệch, trừ đi giá trị giảm giá (nếu có) của hàng hóa đó vào giá dự thầu sau sửa lỗi, hiệu chỉnh sai lệch, trừ đi giá trị giảm giá (nếu có) của nhà thầu để so sánh, xếp hạng;
Hai là, trường hợp áp dụng phương pháp giá đánh giá, hàng hóa không thuộc đối tượng được hưởng ưu đãi phải cộng thêm một khoản tiền bằng 7,5% giá dự thầu sau sửa lỗi, hiệu chỉnh sai lệch, trừ đi giá trị giảm giá (nếu có) của hàng hóa đó vào giá đánh giá của nhà thầu để so sánh, xếp hạng;
Ba là, trường hợp áp dụng phương pháp kết hợp giữa kỹ thuật và giá, hàng hóa thuộc đối tượng được hưởng ưu đãi được cộng điểm ưu đãi vào điểm tổng hợp theo công thức sau đây:
Điểm ưu đãi = 0,075 x (giá hàng hóa ưu đãi /giá gói thầu) x điểm tổng hợp
Trong đó: Giá hàng hóa ưu đãi là giá dự thầu sau sửa lỗi, hiệu chỉnh sai lệch, trừ đi giá trị giảm giá (nếu có) của hàng hóa thuộc đối tượng được hưởng ưu đãi.
Có thể thấy rằng, bằng cách quy định về cách tính ưu đãi và công thức tính ưu đãi đã và đang giải quyết được nhiều khóa khăn, vướng mắc cho bên mời thầu cũng như bên nhà thầu, đây là căn cứ để nhà thầu chứng minh được tỷ lệ phần trăm hưởng ưu đãi, từ đó sẽ hưởng được các lợi ích từ ưu đãi trong lựa chọn nhà thầu.