Tư vấn trường hợp nhà hàng xóm tự ý lấn chiếm đất. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai.
Tư vấn trường hợp nhà hàng xóm tự ý lấn chiếm đất. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai.
Tóm tắt câu hỏi:
Chào Luật sư! Ông bà tôi nhận đất rừng và được cấp bìa vàng năm 1994 khoảng 2 ha, đến năm 1997 ông bà tôi chia cho ông A khoảng 0,5 ha. Đến năm 2007 có đợt đo lại đất và cấp bìa rừng, nhà ông A có ghi vào bìa quá diện tích đất đó và lấn sang đất nhà ông bà tôi khoảng 0,4 ha. Lúc đó Ông bà tôi vắng mặt nên không biết vụ việc. Đến nay 2011 Ông bà tôi có khai hoang trồng trọt trên đất nhà mình (bao gồm cả chỗ diện tích 0,4ha họ ghi vào bìa của họ) cũng không có tranh chấp. Đến năm 2016 họ với kiện ông bà tôi và nói 0,4 ha đó là đất của họ. Vậy đó là đất Ông bà tôi ghi vào bìa trước, họ lại ghi vào bìa họ sau. Tất nhiên ông bà tôi không chuyển nhượng đất cho họ. Vậy Ông bà có quyền sở hữu 0,4 ha đất ấy không? Kinh mong luật sư giúp đỡ. Chân thành cảm ơn luật sư!
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Căn cứ Điều 101 Luật Đất đai 2013 quy định việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất như sau:
"1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này, có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.”
Theo quy định trên, trong trường hợp không có một trong các loại giấy tờ theo quy định tại Điều 100 Luật Đất đai 2013 thì để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cá nhân, hộ gia đình phải sử dụng đất ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Khoản 16 Điều 3 Luật đất đai 2013 quy định: "16. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất."
Theo thông tin bạn cung cấp, ông bà bạn nhận đất rừng và được cấp bìa vàng năm 1994 khoảng 2 ha. Năm 1997 ông bà bạn chia cho ông A khoảng 0,5 ha. Đến năm 2007 có đợt đo lại đất và cấp bìa rừng, nhà ông A có ghi vào bìa quá diện tích đất đó và lấn sang đất nhà ông bà bạn là 0,4 ha. Như vậy, việc kê khai đất đai làm sổ đỏ vào năm 2007 của gia đình ông A là không đúng quy định. Ông A có hành vi lấn chiếm đất của ông bà bạn, đây là hành vi vi phạm Luật đất đai 2013.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Điều 203 Luật đất đai 2013 quy định Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai như sau:
"Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:
1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;
2. Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:
a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;
b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự;
… ".
Để đảm bảo quyền lợi cho ông bà bạn, ông bà bạn nên làm đơn khiếu nại gửi tới Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đang có đất để giải quyết. Sau khi giải quyết tại xã không đảm bảo quyền lợi cho ông bà bạn thì ông bà bạn có quyền làm đơn khởi kiện tới Tòa án nhân dân cấp huyện nơi đang có đất để yêu cầu giải quyết.