Hiện nay, khi tình hình kinh tế ngày càng trở nên phát triển thì việc các đơn vị sự nghiệp công lập cũng dần dần muốn được tách riêng ra ngoài sự quản lý của cơ quan Nhà nước về một số mặt như: nhân sự, tài chính, hợp tác quốc tế, nghiên cứu khoa học,.. Vậy tự chủ đại học được luật định nghĩa là gì?
Mục lục bài viết
1. Tự chủ đại học là gì?
Quyền tự chủ không phải là để đạt được sứ mệnh cốt lõi của bất kỳ trường đại học nào, bất kể quyền sở hữu của nó – công hay tư – trọng tâm, nghiên cứu, ứng dụng hay toàn diện, hoặc hoạt động của nó với tư cách là một tổ chức.
Tuy rằng, theo như quy định của pháp luật việt Nam nói chung và pháp
Tuyên bố về Giáo dục Đại học tuyên bố rằng các trường đại học công lập có quyền tự chủ phát triển các chương trình học tập và nghiên cứu, thuê nhân viên học thuật và hành chính, quản lý nguồn nhân lực, lựa chọn và bổ nhiệm các nhà lãnh đạo đơn vị học thuật, đề cử lãnh đạo cấp cao nhất và tạo ra và sử dụng thu nhập bổ sung.
Tuy nhiên, một số điều này vẫn cần sự chấp thuận của hội đồng hoặc hội đồng trường đại học và – hoặc của Bộ Khoa học và Giáo dục Đại học.
Quy định pháp luật về quyền tự chủ là quan trọng, nhưng quyền tự chủ thực sự hoặc thực tế – tinh thần chứ không chỉ là văn bản của luật – còn quan trọng hơn.
Nhiều trường đại học công lập ở tin rằng việc thiếu quyền tự chủ đầy đủ và thực tế là một trong những thách thức lớn mà họ đang phải đối mặt trong việc giải quyết các sứ mệnh cốt lõi của mình. Do đó, trong hai thập kỷ qua, họ đã yêu cầu nhiều hơn về ‘quyền tự chủ thực sự’.
Gần đây, chính phủ thể hiện sự quan tâm và sẵn sàng trao “quyền tự chủ hoàn toàn về thể chế” cho các trường đại học công lập được lựa chọn. Theo hướng này, Bộ Khoa học và Giáo dục đại học đang xây dựng khung cơ chế tự chủ giáo dục đại học công lập.
2. Tự chủ đại học có tên trong tiếng Anh là gì?
Tự chủ đại học có tên trong tiếng Anh là: “University autonomy”.
3. Quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học?
Chính phủ có kế hoạch tiếp tục đề cử và bổ nhiệm hội đồng quản trị của mỗi trường đại học công lập, bất kể mức độ tự chủ được cấp cho một tổ chức.
Rất khó để tuyên bố và đảm bảo ‘quyền tự chủ hoàn toàn về thể chế’ trong bối cảnh như vậy. Thậm chí còn khó hơn để đảm bảo quyền tự chủ hoàn toàn về thể chế’ trong đó chủ tịch và một số hoặc đa số thành viên hội đồng thống đốc là các quan chức cấp cao của chính phủ.
– Quyền tự chủ và tiếp nhận sinh viên
Việc tuyển sinh và sắp xếp học sinh được thực hiện ở cấp trung ương bởi Bộ Khoa học và Giáo dục đại học phối hợp với Cơ quan Đánh giá và Kiểm tra Giáo dục Quốc gia.
Đây là một trong những yếu tố chính góp phần tạo nên số lượng sinh viên đa dạng ở tất cả các trường đại học công lập, bởi vì vị trí sắp xếp có xem xét một số thuộc tính của sự đa dạng.
Thực hành bố trí học sinh trung tâm cho thấy chỉ một số ít học sinh, chẳng hạn như học sinh đạt điểm cao và học sinh khuyết tật, có cơ hội chọn nơi và học những gì họ muốn.
Chính sách tiếp nhận và sắp xếp học sinh mới chỉ ra rằng phương pháp tiếp nhận và sắp xếp học sinh trung tâm sẽ tiếp tục, nhưng nó cam kết đảm bảo tính minh bạch và công bằng hơn. Tuy nhiên, không rõ bằng cách nào mà một hệ thống như vậy sẽ đảm bảo quyền lựa chọn học ở đâu và học gì của mỗi học sinh.
Trong phạm vi tự chủ về học thuật, các trường đại học mong đợi được cấp quyền phát triển và thực hiện các hệ thống tuyển sinh và sắp xếp sinh viên của riêng họ.
Các xu hướng gần đây cho thấy phần lớn sinh viên thích học tại một trong những trường đại học nằm trong ‘khu vực của họ’ hoặc nơi mà nhóm dân tộc của họ chiếm đa số. Điều này chủ yếu là do nỗi sợ hãi dựa trên và ngoài khuôn viên của những căng thẳng và xung đột sắc tộc.
Do đó, quyền tự chủ về học thuật liên quan đến việc tiếp nhận và sắp xếp sinh viên sẽ có khả năng và vô tình làm giảm sự đa dạng của sinh viên, vốn là đặc điểm chính của các trường đại học công lập. Đến lượt nó, điều này sẽ xát muối vào vết thương và đe dọa đảm bảo sự đa dạng trong sự thống nhất.
Mặc dù chính sách mới quy định rằng việc nhập học và sắp xếp sẽ cân nhắc đến tính đa dạng và nó sẽ không cho phép thực hiện mâu thuẫn với sự đa dạng, rất khó để đảm bảo điều này nếu chính phủ và các trường đại học phải tôn trọng quyền lựa chọn nơi học của sinh viên.
Do đó, Bộ và các trường đại học có thể buộc phải xem xét các chiến lược giúp giải quyết những thách thức này, bao gồm đảm bảo an toàn và phát triển các cơ chế khuyến khích để thu hút sinh viên từ các nguồn gốc dân tộc khác nhau.
– Quyền tự chủ và mức độ liên quan của chương trình
Đó là một bí mật mở rằng một số trường đại học mở các chương trình đại học mà không đánh giá và phân tích mức độ phù hợp của chúng với nhu cầu phát triển của quốc gia và xã hội.
Bộ sắp xếp sinh viên vào các chương trình khác nhau do các trường đại học công lập cung cấp, bất kể sự quan tâm của sinh viên và mức độ phù hợp của chương trình. Thiếu một hệ thống rõ ràng và quan trọng ở cả cấp bộ và cấp đại học để giám sát và đánh giá mức độ phù hợp của chương trình.
Là một phần của quyền tự chủ học thuật, khi sinh viên được quyền lựa chọn học gì, các chương trình học không đóng góp nhiều vào sự phát triển quốc gia và xã hội trong bối cảnh sẽ không thể thu hút sinh viên, và điều này khiến họ phải đóng cửa một cách hợp pháp. .
Quyền tự chủ như vậy buộc các đơn vị học thuật chỉ mở các chương trình phù hợp với thị trường quốc gia và toàn cầu và tiến hành đánh giá chương trình để vẫn hấp dẫn và phù hợp.
– Tự chủ tài chính và tài sản
Mặc dù một số sinh viên sẵn sàng trả học phí và theo học một chương trình phù hợp với sở thích của họ, nhưng điều này đã không thể thực hiện được trong suốt vài thập kỷ qua.
Lựa chọn duy nhất là đăng ký một chương trình mà họ quan tâm trong chương trình mở rộng hoặc chương trình buổi tối. Tuy nhiên, một số chương trình học này chỉ có sẵn trong các chương trình thông thường.
Vì tình hình này, một số trường đại học tư thục đã có thể thu hút những sinh viên có năng lực nhưng không có khả năng theo học chương trình mà họ tự chọn trong các trường đại học công lập.
Gần đây, họ cũng đã có thể thu hút những sinh viên sợ vào các trường đại học công lập ở ‘các khu vực khác’ vì căng thẳng và xung đột sắc tộc ngày càng leo thang. Một số phụ huynh cũng thích gửi con vào các trường đại học tư thục để tránh nguy cơ vào các trường đại học công lập.
Liên quan đến tự chủ tài chính, các trường đại học công lập đang có kế hoạch áp dụng mức học phí và tiếp nhận sinh viên đại học chính quy tự trang trải chi phí. Điều này có khả năng tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các trường đại học công lập và tư thục.
Vì các trường đại học công sẽ tiếp tục nhận tiền từ chính phủ, học phí của họ dự kiến sẽ không cao như học phí ở các trường đại học tư thục.
Trừ khi chính phủ đưa ra một chiến lược khả thi, đây không phải là tin tốt cho các trường đại học tư thục. Điều này là do họ sẽ chỉ nhận những sinh viên không có khả năng học tại các trường đại học công lập và điều này sẽ ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục của các trường đại học tư thục.
– Tự chủ đào tạo
Cam kết của chính phủ trong việc trao quyền tự chủ nhiều hơn cho các trường đại học là rất đáng khen ngợi, nhưng cam kết của chính phủ đối với việc thực hiện là rất quan trọng.
Xem xét cách thức thành lập, cơ cấu và tài chính của các trường đại học công lập, rất khó để mong đợi ‘tự chủ hoàn toàn về thể chế’. Về mặt thực tiễn, thay vì “tự chủ hoàn toàn về thể chế”, sẽ là tốt nếu các trường đại học công lập có mức độ tự chủ thực sự hợp lý, điều cần thiết để đạt được các sứ mệnh cốt lõi của họ.
Bộ và các cơ sở giáo dục đại học cần phân tích tác động của một số quyền được trao hoặc yêu cầu vì chúng có thể tạo điều kiện cho việc bản địa hóa và đẩy nhanh sự xói mòn đoàn kết dân tộc.
– Tự chủ khoa học và công nghệ.
– Tự chủ hợp tác quốc tế.
– Tự chủ bảo đảm chất lượng giáo dục đại học.
Như vậy, có thể thấy rằng pháp luật nước ta đã dần thựa nhận việc tự chủ của các trường đại học trong hệ thống pháp luật giáo dục đại học. Tuy như tác giả đã phân tích ở trên thì đối với một hoạt động tự chủ của một đơn vị đại học thì đều sẽ được quy định trong pháp luật Giáo dục đại học. Do đó, trong quá trình tự chủ của các trường đại học thì cần phải tuân thủ theo các quy định mà pháp luật đã đề ra.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết: Luật giáo dục đại học 2012;