Chuyển nhượng cổ phần là gì? Các trường hợp hạn chế chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần?
Trong công ty cổ phần, thì phần vốn của công ty được chia thành các phần bằng nhau và do các chủ thể khác nhau sở hữu. Các cổ đông là người sở hữu cổ phần trong công ty cổ phần, họ có quyền chuyển nhượng cổ phần mà mình sở hữu cho người khác khi có nhu cầu. Tuy nhiên, pháp luật cũng có những quy định hạn chế về việc chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần. Bài viết dưới đây Luật Dương Gia sẽ cung cấp các thông tin về các trường hợp hạn chế chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần.
Luật sư
1. Chuyển nhượng cổ phần là gì?
Chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần là việc cổ động chuyển quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ số cổ phần mà mình đang năm giữ cho người khác (có thể là cổ động hoặc không phải là cổ đông của công ty) và bên nhận chuyển nhượng cổ phần phải thanh toán cho bên chuyển nhượng cổ phần.
Chuyển nhượng cổ phần mang những đặc điểm sau:
– Chuyển nhượng cổ phần là sự chuyển dịch sở hữu của cổ đông đối với cổ phần của họ trong công ty. Bản chất của hành vi chuyển nhượng cổ phần là sự dịch chuyển sở hữu cổ đông đối với cổ phần của họ trong công ty. Việc chuyển nhượng cổ phần là hành vi làm thay đổi (mua bán, tặng cho, thừa kế,… ) số lượng cổ phần mình đang nắm giữ. Cổ đông chuyển nhượng sẽ giảm đi số lượng cổ phần đối với việc chuyển nhượng một phần hoặc không còn là cổ đông của công ty nếu như chuyển nhượng toàn bộ cổ phần. Và người nhận chuyển nhượng cổ phần sẽ trở thành cổ đông mới của công ty, được hưởng tất cả các quyền và nghĩa vụ như các cổ động hiện hữu khác của công ty.
– Chuyển nhượng cổ phần không làm thay đổi vốn điều lệ của công ty cổ phần trên thực tế. Chuyển nhượng cổ phần không làm tăng thêm hay giảm đi số cổ phần thực tế mà công ty đã phát hành. Việc chuyển nhượng cổ phần chỉ làm thay đổi chủ sở hữu cổ phần chứ không làm mất đi giá trị cũng như số lượng cổ phần.
– Chuyển nhượng cổ phần có thể phát sinh lợi nhuận hoặc không. Hoạt động chuyển nhượng cổ phần là hoạt động mua bán nhằm tìm kiếm lợi nhuận của người sở hữu cổ phần đó. Thông thường, các nhà đầu tư mua cổ phần khi công ty mới thành lập và theo sự phát triển của công ty, giá trị cổ phần tăng lên họ có thể chuyển nhượng cho người khác có nhu cầu tham gia công ty để tìm kiếm lợi nhuận từ khoản chênh lệch giá trị cổ phần so với ban đầu.
– Chuyển nhượng cổ phần sở hữu cổ phần phải theo nguyên tắc, điều kiện chuyển nhượng cổ phần quy định của pháp luật và Điều lệ công ty. Chuyển nhượng cổ phần theo nguyên tắc tự do, trừ các trường hợp bị hạn chế chuyển nhượng. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ hạn chế cổ phần ưu đãu biểu quyết và cổ phần của cổ đông sáng lập theo luật định. Tuy nhiên, việc chuyển nhượng cổ phần không chỉ theo pháp luật của công ty và còn theo Điều lệ công ty. Nếu điều lệ công ty có quy định về hạn chế cổ phần và nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng thì việc chuyển nhượng phải tuân theo quy định của Điều lệ công ty. Mối công ty có những đặc thù tiêng và những quy định khác nhau, nếu trong trường hợp quy định hạn chế chuyển nhượng cổ thì hành vi chuyển nhượng cổ phần đó sẽ không được công nhận.
– Chuyển nhượng cổ phần phải thực hiện theo thủ tục nhất định theo quy định của pháp luật. Việc chuyển nhượng được thực hiện bằng hợp đồng theo cách thông thường hoặc thông qua giao dịch chứng khoán. Trường hợp chuyển nhượng cổ phần thông qua hợp đồng thì các bên tham gia chuyển nhượng phải tuân thủ các quy định trong Bộ luật Dân sự. Trường hợp chuyển nhượng thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán, trình tự, thủ tục và việc ghi nhận sở hữu thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
2. Các trường hợp hạn chế chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần
Tại điểm d Khoản 1 Điều 111
Dẫn chiếu theo quy định trên, thì tại Khoản 3 Điều 120 Luật Doanh nghiệp quy định như sau:
Theo quy định tại khoản 3 Điều 116
Theo đó, trong thời hạn 03 năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, các cổ đông sáng lập được tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho nhau. Theo quy định tại Khoản 4 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định “Cổ đông sáng lập là cổ đông sở hữu ít nhất một cổ phần phổ thông và ký tên trong danh sách cổ đông sáng lập công ty cổ phần.” như vậy, có thể hiểu các cổ đông sáng lập là cổ đông góp vốn, hay sở hữu cổ phần ngay từ khi thành lập công ty cổ phần. Tuy nhiên, trường hợp cổ đồng sáng lập muốn chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho các thành viên khác không phải là cổ đông sáng lập hoặc cho người không phải là thành viên của công ty thì phải được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Đồng thời, cổ đông dự định chuyển nhượng cổ phần cũng không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng các cổ phần đó.
Pháp luật ban hành quy định này nhằm để bảo vệ lợi ích của những người đến mua cổ phần sau khi công ty thành lập. Nghĩa là, các cổ đông đã có ý tưởng sáng lập ra công ty phải có trách nhiệm gắn bó với công ty, không được tùy ý từ bỏ công ty. Khi cổ đông sáng lập chuyển nhượng cổ phần cho cá nhân khác dễ dẫn đến các bất ổn trong hoạt động của công ty vì họ là những người gắn bó với doanh nghiệp từ ngay những ngày đầu doanh nghiệp thành lập. Việc một cổ đông sáng lập rời khỏi công ty phải được Đại hội đồng cổ đông chấp thuận, tức là phải được sự đồng ý của các cổ đông khác.
Bên cạnh đó, quy định các hạn chế đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập đều được bãi bỏ sau thời hạn ba năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Tương tự với quy định trên, thì tại Khoản 1 Điều 127 Luật Doanh nghiệp năm 2020 1uy định như sau: “Cổ phần được tự do chuyển nhượng, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 120 của Luật này và Điều lệ công ty có quy định hạn chế chuyển nhượng cổ phần. Trường hợp Điều lệ công ty có quy định hạn chế về chuyển nhượng cổ phần thì các quy định này chỉ có hiệu lực khi được nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng.”
Như vậy, theo quy định này ngoài trường hợp hạn chế chuyển nhượng cổ phần đối với các cổ đông sáng lập, thì nếu trong điều lệ của công ty cổ phần có những quy định hạn chế chuyển nhượng cổ phần thì phải tuân theo những quy định về hạn chế chuyển nhượng cổ phần đó. Việc quy định này là hoàn toàn hợp lý, pháp luật luôn tôn trọng sự thỏa thuận của các chủ thể khi thành lập, và việc chuyển nhượng cổ phần cũng vậy.
Bên cạnh việc hạn chế chuyển nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập, thì pháp luật còn quy định như sau: ” Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác, trừ trường hợp chuyển nhượng theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc thừa kế.” (Khoản 3 Điều 116 Luật Doanh nghiệp năm 2020)
Cổ phần ưu đãi biểu quyết là cổ phần có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông, số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do Điều lệ công ty quy định. Các cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết có quyền biểu quyết về các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông với số phiếu biểu quyết theo quy định trong Điều lệ công ty, do đó, pháp luật quy định cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác nhằm nâng cao trách nhiệm đối với công ty của cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết và không làm xáo trộn vị trí quản lý của công ty cô.
Tuy nhiên quy định này cũng có những ngoại lệ đó chính là việc chuyển nhượng cổ phần ưu đãi biểu quyết đó chính là chuyển nhượng theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc thừa kế. Trong các trường hợp này thì người có cổ phần ưu đãi biểu quyết sẽ chuyển nhượng cổ phần theo bản án của Tòa án, khi đó có thể chuyển nhượng cổ phần ưu đãi biểu quyết cho cá nhân mà đã được chỉ định. Hoặc trong trường hợp người sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết chết thì cổ phần ưu đãi biểu quyết đó sẽ được cho thừa kế lại cho người thừa kế.