Vai trò của trọng tài thương mại quốc tế? Các loại trọng tài thương mại quốc tế? Cơ chế pháp lý giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại quốc tế? Khả năng công nhận và cho thi hành của phán quyết trọng tài thương mại quốc tế?
Trọng tài thương mại quốc tế là phương thức giải quyết tranh chấp được thành lập ban đầu bởi sự thỏa thuận của các bên nhằm giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài bằng trọng tài viên.
Nét chung
– Trọng tài thương mại quốc tế được thiết lập bởi các bên, được điều khiển bởi Hội đồng trọng tài gồm 1 hoặc 3 người và được xét xử kín.
– Quyết định của trọng tài là quyết định chung thẩm có giá trị bắt buộc các bên phải thực hiện, không có kháng cáo, kháng nghị.
– Bản chất của tranh chấp là tranh chấp thương mại, tính chất quốc tế của trọng tài được quy định dựa trên 2 yếu tố hoặc riêng rẽ, hoặc được kết hợp với nhau.
– Chủ thể: có quốc tịch khác nhau, trụ sở và nơi cư trú thường xuyên khác nhau.
Mục lục bài viết
- 1 1. Thẩm quyền của trọng tài thương mại quốc tế:
- 2 2. Các hình thức thỏa thuận trọng tài:
- 3 3. Vai trò của trọng tài thương mại quốc tế:
- 4 4. Các loại trọng tài thương mại quốc tế:
- 5 5. Cơ chế pháp lý giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại quốc tế:
- 6 6. Khả năng công nhận và cho thi hành của phán quyết trọng tài thương mại quốc tế:
1. Thẩm quyền của trọng tài thương mại quốc tế:
– Trọng tài thương mại quốc tế không có thẩm quyền đương nhiên, chỉ có thẩm quyển khi các bên thỏa thuận lựa chọn.
– Thỏa thuận trọng tài có thể phát sinh trước hoặc sau thời điểm phát sinh tranh chấp.
– Thỏa thuận trọng tài có hiệu lực khi nội dung của trọng tài phải thể hiện ý chí chung của các bên, hiệu lực của trọng tài phải được thể hiện dưới hình thức văn bản.
– Thẩm quyền của trọng tài còn bị ảnh hưởng bởi phạm vi các tranh chấp: bị giới hạn xét xử trong một số những quan hệ thương mại , hay những tranh chấp phát sinh trong quan hệ hôn nhân, gia đình, thừa kế..
Luật sư
2. Các hình thức thỏa thuận trọng tài:
– Các hình thức thỏa thuận trọng tài gồm:
+ Trọng tài thường trực: được quản lý bởi 1 tổ chức trọng tài nhất định và tuân theo các quy tắc trọng tài của tổ chức đó. Mỗi một tranh chấp trọng tài đều có một bộ nguyên tắc trọng tài riêng, các bên tranh chấp không phải tự xây dựng trình tự thủ tục.
+ Trọng tài vụ việc: do các bên tham gia trọng tài xây dựng lên
– Sau khi có quyết định của trọng tài thì sẽ nộp đơn xin công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài tại nước ngoài.
3. Vai trò của trọng tài thương mại quốc tế:
Theo Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế ngày 21/6/1985 của UNCITRAL thì trọng tài sẽ mang tính chất quốc tế khi:
– Vào thời điểm giao kết thỏa thuận trọng tài, các bên có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau hoặc;
– Một trong những yếu tố sau đây ở ngoài lãnh thổ nơi các bên có trụ sở kinh doanh: nơi xét xử trọng tài hoặc nơi thực hiện phần chủ yếu của nghĩa vụ trong quan hệ thương mại hoặc nơi có quan hệ mật thiết với nội dung tranh chấp hoặc;
– Các bên đã thỏa thuận rõ ràng là nội dung chủ yếu của thỏa thuận trọng tài liên quan đến ít nhất là hơn một nước.
Tính thương mại của trọng tài quốc tế: Các quan hệ mang tính chất thương mại bao gồm: các giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ; thỏa thuận phân phối, đại diện hoặc đại lý thương mại, thuê mua xây dựng công trình, tư vấn kỹ thuật, li xăng, đầu tư, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, hợp đồng thăm dò, khai thác; liên doanh và các hình thức hợp tác liên doanh; vận tài hàng hóa hoặc hành khách bằn đường hàng không, biển, sắt hoặc đường bộ.
Như vậy, trọng tài thương mại quốc tế là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ tư pháp quốc tế, nhất là các quan hệ thương mại quốc tế mà pháp luật cho phép giải quyết được bằng trọng tài. Theo phương thức này, các bên nhất trí thỏa thuận với nhau sẽ đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại một cơ quan trọng tài nhất định nào đó.
- Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài
- Nguyên tắc trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan
- Nguyên tắc trọng tài viên phải căn cứ vào pháp luật
- Nguyên tắc trọng tài viên phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên
- Nguyên tắc giải quyết một lần
Vai trò của trọng tài thương mại quốc tế:
+ Ưu điểm cơ bản sau:
– Thủ tục tiện lợi nhanh chóng: Các bên không phải tuân thủ những nguyên tắc tố tụng nghiêm ngặt và phức tạp, mà có thể quyết định cả về nguyên tắc, trình tự thủ tục trọng tài, tố tụng trọng tài chỉ diễn ra ở một cấp, quyết định của trọng tài có giá trị chung thẩm mà không bị kháng cáo, kháng nghị tại bất cứ trọng tài khác cũng như tại Tòa án.
– Phán quyết của trọng tài thướng chính xác, khách quan và có độ tin cậy cao hơn:Vì các bên được quyền chọn trọng tài viên cho mình, nên các trọng tài viên thường là những chuyên gia có kinh nghiệm an hiểm sau sắc về các lĩnh vực chuyên môn có liên quan đến hợp đồng; quyết định của Trọng tài dường như không bị chi phối bởi yếu tố chính trị vì thế sẽ mang tính khách quan hơn so với phán quyết của Tòa án.
– Khả năng giữ bí mật: Trọng tài hoạt động theo nguyên tắc xét xử kín, các quyết định của trọng tài không được công khai nếu không được sự đồng ý của các bên.
– Chi phí trọng tài: với thủ tục tố tụng đơn giản nên chi phí trọng tài ít tốn kém hơn so với chi phí kiện tụng trước Tòa án.
4. Các loại trọng tài thương mại quốc tế:
Theo Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế ngày 21/6/1985 của UNCITRAL thì trọng tài sẽ mang tính chất quốc tế khi:
– Vào thời điểm giao kết thỏa thuận trọng tài, các bên có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau hoặc;
– Một trong những yếu tố sau đây ở ngoài lãnh thổ nơi các bên có trụ sở kinh doanh: nơi xét xử trọng tài hoặc nơi thực hiện phần chủ yếu của nghĩa vụ trong quan hệ thương mại hoặc nơi có quan hệ mật thiết với nội dung tranh chấp hoặc;
– Các bên đã thỏa thuận rõ ràng là nội dung chủ yếu của thỏa thuận trọng tài liên quan đến ít nhất là hơn một nước.
Như vậy, trọng tài thương mại quốc tế là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ tư pháp quốc tế, nhất là các quan hệ thương mại quốc tế mà pháp luật cho phép giải quyết được bằng trọng tài. Theo phương thức này, các bên nhất trí thỏa thuận với nhau sẽ đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại một cơ quan trọng tài nhất định nào đó.
- Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài
- Nguyên tắc trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan
- Nguyên tắc trọng tài viên phải căn cứ vào pháp luật
- Nguyên tắc trọng tài viên phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên
- Nguyên tắc giải quyết một lần
Các loại trọng tài thương mại quốc tế
a. Trọng tài thương mại ad – hoc
Là trọng tài được thành lập bởi các bên đương sự, nhằm giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể nào đó, sau khi giải quyết xong tranh chấp thì nó tự giải thể.
+ Đặc điểm: không có trụ sở cố định như trọng tài thường trực; không lệ thuộc vào bất kì quy tắc xét xử nào cả và thường chỉ có một trọng tài viên duy nhất do các bên thống nhất lựa chọn.
+ Ưu điểm: rất gọn nhẹ và linh hoạt; thời gian xét xử ngắn, hai bên dễ đi đến thỏa thuận chung, chi phí ít;
+ Nhược điểm: nó phụ thuộc rất nhiều vào sự hợp tác của các bên. Và vì nó không có quy tắc tố tụng riêng nên phụ thuộc vào hệ thốn luật nơi xét xử của trọng tài.
b. Trọng tài thường trực là trọng tài có tổ chức được thành lập để hoạt động một cách thường xuyên, có trụ sở và điều lệ, có quy tắc xét xử riêng. Ban trọng tài có thể là một trọng tài viên được chọn trong số trọng tài viên niêm yết của trung tâm trọng tài hoặc có thể có ba trọng
Việt Nam: trung tâm trọng tài quốc tế VIAC đã được thành lập 28/4/1993 và ngày càng chiếm vị thế quan trọng trên thị trường trọng tài quốc tế.
5. Cơ chế pháp lý giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại quốc tế:
Luật áp dụng để xét xử tranh chấp là luật mà trọng tài dùng để xem xét việc thực hiện nghĩa vụ của các bên tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng. Luật này được gọi là luật áp dụng cho hợp đồng.
Đối với các tranh chấp thương mại nội địa, đương nhiên, luật áp dụng trong hợp đồng là luật quốc gia, chẳng hạn như ở Việt Nam thì căn cứ vào luật thương mại, pháp lênh hợp đồng kinh tế, luật đất đai… Vấn đề chọn luật áp dụng trong hợp đồng không đặt ra với các hợp đồng nội.
Trong thương mại quốc tế, luật của rất nhiều nước liên quan đến quan hệ của các bên trong hợp đồng và cùng có khả năng điều chỉnh hợp đồng ngang nhau. Giữa các nguồn luật đó luôn tồn tài hiện tượng xung đột luật, vì thế khi đưa tranh chấp ra trong tài, các bên đương sự phải thoả thuận thống nhất về luật áp dụng trong hợp đồng. Các nguồn luật áp dụng trong thương mại quốc tế bao gồm: Các điều ước quốc tế, các tập quán thương mại quốc tế và luật quốc gia.
Điều ước quốc tế: là những văn bản có chứa những quy phạm pháp luật được các quốc gia và các chủ thể khác xây dựng, ký kết, công nhận và có hiệu lực pháp lý đối với chủ thể của các quốc gia thành viên. Nó có thể là: Hiệp ước, Hiệp định, Nghị định thư, công hàm trao đổi… khi có tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhưng không được quy định hoặc quy định không đầy đủ thì các bên có thể đưa điều ước quốc tế vào để xử lý vấn đề đó. Các điều ước này không có giá trị bắt buộc đối với các quan hệ thương mại quốc tế nếu như nó chưa được quốc gia đó phê chuẩn. Khi quốc gia đã phê chuẩn, tất cả những trường hợp mà hợp đồng không dẫn chiếu thì điều ước đó vẫn đương nhiên được áp dụng.
Có hai loại điều ước quốc tế trong lĩnh vực mua bán hàng hoá: Thứ nhất, loại điều ước quốc tế đề ra những nguyên tắc pháp lý chung làm cơ sở cho hoạt động thương mại, nó không điều chỉnh trực tiếp các vấn đề quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý của các bên tham gia hợp đồng mà chỉ đề ra các nguyên tắc pháp lý có tính chất định hướng, chỉ đạo: ví dụ như Hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam – EU, Hiệp định thương mại Việt Nam – Mỹ; Hiệp định cắt giảm thuế quan với ASEAN… Thứ hai, là loại điều ước quốc tế trực tiếp điều chỉnh đến các vấn đề có liên quan đến quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên trong ký kết và thực hiện hợp đồng. Đây chính là nguồn quy phạm pháp luật dùng để giải quyết tranh chấp, thường được các bên và cơ quan tiến hành tố tụng viện dẫn trong quá trình giải quyết tranh chấp. Loại điều ước này điển hình có Công ước Brussel 1964 về chuyên chở hàng hoá,
Tập quán thương mại: là những quy tắc xử sự có hệ thống, những thói quen thương mại phổ biến được áp dụng một cách thường xuyên, liên tục trong một thời gian dài và phải có nội dung rõ ràng mà qua đó có thể xác định được quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Các tập quán thương mại quốc tế chỉ có giá trị pháp lý và có hiệu lực bắt buộc đối với các chủ thể ký kết khi nó được quy định hoặc dẫn chiếu vào hợp đồng. Điều 135 quy tắc ICC về trọng tài quy định “Các trọng tài không chỉ áp dụng luật áp dụng mà còn phải dùng tới các điều khoản trong hợp đồng và những “Tập quán thương mại” thích hợp để giải quyết vụ việc”. Trong những luật trọng tài của các quốc gia cũng quy định như vậy.
Một ví dụ về tập quán thương mại quốc tế thông dụng được phòng thương mại quốc tế soạn thảo và ban hành đó là các bản Incoterm: quy định về điều kiện cơ sở giao hàng. Hay là quy tắc thống nhất và thực hành tín dụng chứng từ – UCP cũng tỏ ra rất hữu dụng trong việc hướng dẫn đến một chuẩn mực quốc tế duy nhất cho quyền và nghĩa vụ của các bên.
Ngoài ra, đối với các quốc gia theo hệ thống “common law” còn có các án lệ là các quy tắc xét xử được hình thành từ thực tiễn xét xử. Khi lựa chọn luật của các quốc gia này, các chủ thể cần để ý đến những án lệ này.
Luật quốc gia: trong thực tiễn và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tê, bên cạnh các điều ước quốc tế, các tập quán thương mại quốc tế và án lệ, luật quốc gia cũng đóng một vai trò khá quan trọng và trong nhiều trường hợp là nguồn luật điều chỉnh các quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên luật quốc gia chỉ trở thành luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế trong các trường hợp sau:
– Khi các bên ký kết hợp đồng thoả thuận trong điều khoản luật áp dụng của hợp đồng việc chọn luật của một bên để điều chỉnh hợp đồng.
– Khi điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế không được quy định trong các điều ước quốc tế liên quan, luật quốc gia đương nhiên trở thành luật áp dụng cho hợp đồng đó.
Nói đến luật quốc gia như một nguồn luật của thương mại quốc tế không có nghĩa là tất cả các luật đều được áp dụng mà chỉ có một số luật, văn bản pháp luật có liên quan đến thương mại quốc tế được áp dụng, bởi vì luật quốc gia không chỉ điều chỉnh các quan hệ thương mại quốc tế mà nó còn điều chỉnh rất nhiều mối quan hệ khác.
Luật quốc gia áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá thông thường là luật của nước nào có quan hệ gần nhất với hợp đồng, tuy theo cách xác định, nhưng phải là luật đặc trưng, thường là luật của nước bên bán, luật của nước nơi hợp đồng được ký kết, nhưng cũng có thể là luật của bên mua, có thể là luật của nước thứ ba, luật quốc tịch, luật nơi nghĩa vụ của hợp đồng được thực hiện…
Trong quá trình đàm phán hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế điều khoản luật áp dụng thường được ghi một cách rõ ràng trong hợp đồng để tránh tình trạng khó xác đinh luật quốc gia điều chỉnh các quan hệ hợp đồng. Việc thoả thuận luật quốc gia áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là một vấn đề phức tạp, cho nên các chủ thể ký kết không những phải thông thạo luật của nước mình mà còn phải tìm hiểu kỹ luật của nước khác quan hệ với hợp đồng để đảm bảo quyền lợi của mình, tránh được những thiệt thòi do sự thiếu hiểu biết pháp luật gây ra.
Tuy nhiên việc áp dụng luật của quốc gia nào để giải quyết tranh chấp trong hợp đồng đôi khi không chỉ phụ thuộc vào ý chỉ chủ quan của một chủ thể mà thường bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác như: tương quan lực lượn giữa các bên tham gia hợp đồng, do điều kiện đặc thù khi triển khai hợp đồng đó… Trường hợp phải áp dụng luật của nước thứ ba, ít nhất phải hiểu được luật của nước đó có tiện cho người mua hay người bán, liên quan đến hợp đồng đã ký kết như thế nào, những điểm gì kiêng kị cần tránh…
Đôi khi các bên thoả thuận lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng sau khi hợp đồng đã được ký kết. Trường hợp này thường xảy ra khi ký kết hợp đồng, vì một lý do khách quan nào đó, các bên tiến hành rất nhanh chóng (để chớp thời cơ…) nên chưa kịp nêu điều khoản luật áp dụng trong hợp đồng.
Tại Việt Nam, Luật thương mại 2005 là nguồn luật quan trọng để các thương nhân Việt Nam nắm vững, áp dụng trong đàm phán ký kế hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Luật thương mại Việt Nam ra đời đã tạo một trường pháp lý vô cùng thuận lợi cho các thương nhân Việt Nam, đó là công cụ pháp lý quan trọng, là chỗ dựa pháp lý rất tin cậy cho các thương nhân Việt Nam tiến hành các hoạt động thương mại trong kinh doanh quốc tế. Do đó, trong trường hợp mặc dù
6. Khả năng công nhận và cho thi hành của phán quyết trọng tài thương mại quốc tế:
Vào giai đoạn công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài thương mại quốc tế được đặt ra, nguyên tắc thoả thuận trọng tài được điều chỉnh bởi luật do các bên lựa chọn được sử dụng khá phổ biến trong pháp luật các nước cũng như các quy tắc tố tụng trọng tài quốc tế. Về nguyên tắc, điều khoản trọng tài độc lập với phần còn lại của hợp đồng. Điều này được thừa nhận rộng rãi trên thế giới. Do đó, các bên có quyền thoả thuận một luật riêng để điều chỉnh điều khoản trọng tài mà không phải dựa vào luật điều chỉnh nội dung hợp đồng. Nếu muốn một luật riêng như vậy, họ cần thoả thuận rõ về việc áp dụng luật đó trong hợp đồng hoặc một văn bản riêng. Tuy nhiên trên thực tế, hiếm khi các bên thoả thuận áp dụng luật riêng cho thoả thuận trọng tài mà mặc nhiên sử dụng ngay luật điều chỉnh nội dung hợp đồng (thường được thoả thuận dưới dạng một điều khoản hợp đồng).
Trong trường hợp các bên không có thoả thuận như vậy, nhiều hệ thống pháp luật thừa nhận nguyên tắc luật của quốc gia nơi phán quyết trọng tài được tuyên sẽ thay thế. Nguyên tắc này được tìm thấy gián tiếp qua các quy định về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài trong các luật trọng tài trên thế giới.
Ví dụ:
– Khoản 1 điều 54 Luật Trọng tài Thuỵ Điển 1999 quy định: “Phán quyết trọng tài nước ngoài có thể bị từ chối công nhận và thi hành ở Thuỵ Điển nếu bên bị chống lại quyền lợi chứng minh được rằng… thoả thuận trọng tài không hợp pháp theo luật của nước mà các bên đã chọn, nếu họ không đạt được thoả thuận như vậy, theo luật của nước phán quyết trọng tài được tuyên”.
– Khoản II điều 38 Luật Trọng tài Brazil quy định: “… phán quyết trọng tài nước ngoài có thể bị từ chối công nhận và thi hành nếu bị đơn chứng minh được rằng thoả thuận trọng tài không có hiệu lực theo luật của nước mà các bên đã chọn, nếu thiếu điều này, theo luật của nước nơi phán quyết trọng tài được tuyên”.
– Nội dung tương tự cũng được ghi nhận tại điều 103(2)(b) Luật Trọng tài Anh 1996: “Công nhận và thi hành phán quyết trọng tài có thể bị từ chối nếu bị đơn chứng minh được rằng, thoả thuận trọng tài không hợp pháp theo luật của nước các bên đã chấp thuận nó, nếu không có điều này, theo luật của nước nơi phán quyết trọng tài được tuyên.”
Theo điều 34(2)(a)(i) Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế 1985 của UNCITRAL: “Một quyết định chỉ có thể bị toà án theo quy định tại Điều 6 huỷ trong trường hợp… thoả thuận nói trên không có giá trị pháp lý theo luật mà các bên đã chọn để áp dụng hoặc theo luật của quốc gia nơi quyết định được tuyên trong trường hợp mà các bên không ghi rõ”. Nội dung tương tự cũng được thể hiện tại điều V Công ước NewYork 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài: “Việc công nhận và thi hành quyết định có thể bị từ chối, theo yêu cầu của bên phải thi hành, chỉ khi nào bên đó chuyển tới cơ quan có thẩm quyền nơi việc công nhận và thi hành được yêu cầu, bằng chứng rằng: Các bên của thỏa thuận nói ở điều II, theo luật áp dụng đối với các bên, không có đủ năng lực, hoặc thoả thuận nói trên không có giá trị theo luật mà các bên chịu sự điều chỉnh, nếu không có chỉ dẫn về điều này, theo luật của Quốc gia nơi ra quyết định”.
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài:1900.6568
Như vậy, trong giai đoạn công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài, luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài trong trường hợp các bên không có thỏa thuận là luật của quốc gia nơi phán quyết trọng tài được tuyên. Mặt khác, khi thỏa thuận về việc lựa chọn luật áp dụng để điều chỉnh thỏa thuận trọng tài, các bên thường có xu hướng lựa chọn hệ thống pháp luật “có lợi” cho mình nhất. Do đó, trong quá trình soạn thảo điều khoản lựa chọn luật áp dụng, các bên cần cân nhắc kỹ, nên lựa chọn hệ thống pháp luật ổn định, quen thuộc, dễ dàng tiếp cận, và có phải khả năng thi hành.