Tranh luận trong phiên tòa là gì? Tranh luận tại phiên tòa tên tiếng Anh là gì? Quy định về tranh luận tại phiên tòa?
Trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thì không thể thiếu được phần tranh luận tại phiên tòa, đây là một trong những phần vô cùng quan trọng, tại phần tranh luận thì giữa bên viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng tranh luận và phân tích, đánh giá những chứng cứ của vụ án hình sự để từ đó làm cơ sở đề ra những biện pháp xử lý phù hợp với quy định của pháp luật. Vậy tranh luận trong phiên tòa được quy định như thế nào và trình tự thủ tục ra sao?
– Co sở pháp lý:
1. Tranh luận trong phiên tòa là gì?
Tranh luận tại phiên tòa được quy định tại Điều 322
Tranh luận tai phiên tòa là việc: bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với Kiểm sát viên về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
2. Tranh luận tại phiên tòa tên tiếng Anh là gì?
Tranh luận tại phiên tòa tên tiếng Anh là: ” Oral arguments in court”
3. Quy định về tranh luận tại phiên tòa
” Điều 322. Tranh luận tại phiên tòa
1. Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với Kiểm sát viên về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền đưa ra đề nghị của mình.
2. Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.
Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác.
3. Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị hại, người tham gia tố tụng khác tranh luận, trình bày hết ý kiến nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án và ý kiến lặp lại.
Chủ tọa phiên tòa yêu cầu Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến của người bào chữa, người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận.
4. Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản án.”
– Trình tự thủ tục tranh luận tại phiên tòa được tiến hành như sau:
+ Sau khi kết thúc việc xét hỏi, kiểm sát viên trình bày luận tội; nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị toà án tuyên bố bị cáo không có tội.
+ Bị cáo trình bày lời bào chữa; người bào chữa trình bày lời bào chữa cho bị cáo; bị cáo, người đại diện của bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa.
+ Bị hại, đương sự, người diện của họ trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích của mình; nếu có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ thì người này có quyền trình bày, bổ sung ý kiến.
+ Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày, bổ sung ý kiến sau khi kiểm sát viên trình bày luận tội. Kiểm sát viên trình bày lời luận tội
+ Để cơ sở tranh luận và bảo đảm tranh luận dân chủ tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp và phù hợp với
+ Luận tội của kiểm sát viên phải căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu, đồ vật đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.
* Tranh luận tại phiên tòa :
+ Tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lí vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền đưa ra đề nghị của mình.
+ Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, bị hại, người tham gia tố tụng khác tại phiên toà. Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác.
+ Nếu trong vụ án có nhiều người bào chữa cho bị cáo hoặc những người tham gia tố tụng khác có cùng ý kiến về một nội dung thì kiểm sát viên tổng hợp lại để đối đáp chung cho các ý kiến đó.
Trong trường hợp chủ tọa phiên tòa đề nghị kiểm sát viên đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tung khác chưa được tranh luận thì kiểm sát viên thực hiện theo đề nghị của chủ tọa phiên tòa , nếu đã tranh luận một phần thì kiểm sát viên tranh luận bổ sung cho đầy đủ, không lặp lại những nội dung đã tranh luận trước.
+ Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện cho kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị hại, người tham gia tó tranh luận, trình bày hết ý kiến nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án và ý kiến lặp lại. tụng khác
+ Chủ tọa phiên tòa yêu cầu kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến của người bào chữa, người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chứa được kiểm sát viên tranh luận.
+ Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia phiên tòa thì hội đồng xét xử phải nêu rõ lí do và được ghi trong bản án.
+ Nếu qua tranh luận mà thấy còn có tình tiết vụ án chưa được hỏi, chưa được làm sáng tỏ thì hội đồng xét xử phải quyết định trở lại việc xét hỏi. Xét hỏi xong phải tiếp tục tranh luận.
– Sau đó, bị cáo nói lời sau cùng. Sau khi những người tham gia tranh luận không trình bày gì thêm, chủ toạ phiên tòa tuyên bố kết thúc tranh luận. Bị cáo được nói lời sau cùng. Không được đặt câu hỏi khi bị cáo nói lời sau cùng. Nếu trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày thêm tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng đối với vụ án thì hội đồng xét xử phải quyết định trở lại việc hỏi. Hội đồng xét xử có quyền yêu cầu bị cáo không được trình bày những điểm không liên quan bị cáo.
– Khi xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa. Khi kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn thì hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án. Trong trường hợp kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì trước khi nghị án, hội đồng xét xử yêu cầu những người tham gia phiên tòa trình bày ý kiến về việc rút quyết định truy tố đó. Việc rút quyết định truy tố được giải quyết cụ thể như sau:
+ Nếu kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố không có căn cứ nhưng hội đồng xét xử vẫn chấp nhận và tuyên bị cáo không phạm tội thì viện kiểm sát cùng cấp hoặc viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải kháng nghị the thủ tục phúc thẩm.
+ Trường hợp
+ Nếu việc rút quyết định truy tố của kiểm sát viên có căn cứ thì viện trưởng viện kiểm sát nhận được kiến nghị
Như vậy, tranh luận tại phiên tòa phải được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật và những người tham gia tố tụng có quyền hỏi lại những vấn đề mà họ chưa rõ và liên quan đến vụ án, Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến của người bào chữa, người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận và Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản án.