Hiện nay, nhiều doanh nghiệp hoặc cá nhân muốn nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài vào lãnh thổ của Việt Nam nhưng không tự mình thực hiện mà thông qua hình thức ủy thác nhập khẩu. Dưới đây là quy định của pháp luật về tranh chấp thương mại liên quan đến hoạt động ủy thác nhập khẩu này.
Mục lục bài viết
1. Tranh chấp thương mại liên quan đến ủy thác nhập khẩu:
Trong hoạt động thương mại thì tranh chấp thương mại nói chung và tranh chấp thương mại liên quan đến hoạt động ủy thác nhập khẩu nói riêng diễn ra vô cùng phổ biến trong đời sống và đòi hỏi phải có hướng xử lý phù hợp. Khi xảy ra tranh chấp thương mại liên quan đến hoạt động ủy thác nhập khẩu thì cần phải thực hiện những giai đoạn xử lý như sau:
Bước 1: Người khởi kiện chuẩn bị hồ sơ và nộp đơn khởi kiện đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Người khởi kiện sẽ nộp đơn khởi kiện tranh chấp thương mại liên quan đến hoạt động ủy thác nhập khẩu tại tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Thông thường thì các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại nói chung và tranh chấp thương mại liên quan đến hoạt động ủy thác nhập khẩu nói riêng sẽ được tòa án nhân dân cấp huyện nơi bị đơn có trụ sở giải quyết theo quy định. Các trường hợp đặc biệt khác thì tòa án có thẩm quyền giải quyết sẽ được xác định căn cứ theo Điều 39 và Điều 40 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Trong quá trình nộp đơn khởi kiện giải quyết tranh chấp thương mại liên quan đến hoạt động ủy thác nhập khẩu thì người khởi kiện sẽ cần phải nộp kèm theo các giấy tờ và tài liệu chứng cứ để chứng minh quyền lợi hợp pháp của mình đang bị xâm phạm. Người khởi kiện có thể nộp hồ sơ trực tiếp tại tòa án hoặc gửi hồ sơ thông qua dịch vụ bưu chính hoặc gửi thông qua hình thức trực tuyến tại cổng thông tin điện tử của toà án.
Bước 2: Tòa án nhận đơn và xử lý đơn khởi kiện theo quy định của pháp luật. Tức là, trong khoảng thời gian 03 ngày làm việc được tính kể từ ngày nhận đơn khởi kiện thì Chánh án tòa án sẽ phân công thẩm phán xem xét đơn khởi kiện để giải quyết tranh chấp thương mại liên quan đến hoạt động ủy thác nhập khẩu. Sau đó trong khoảng thời gian năm ngày làm việc được tính kể từ ngày phân công thì thẩm phán sẽ phải xem xét đơn khởi kiện và ra 1 trong những quyết định cơ bản sau đây: Yêu cầu sửa đổi hoặc bổ sung đơn khởi kiện nếu xét thấy đơn khởi kiện không đầy đủ theo quy định của pháp luật, tiến hành hoạt động thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục rút gọn nếu xét thấy vụ án có đầy đủ điều kiện để có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn căn cứ theo quy định tại Điều 317 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, chuyển đơn khởi kiện cho tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án khác, trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu xét thấy vụ việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.
Bước 3: Yêu cầu người khởi kiện đóng tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật. Tức là, sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo và xét thấy vụ án đó tổ thẩm quyền giải quyết của tòa án thì thẩm phán sẽ phải thông báo cho người khởi kiện để họ đến tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong trường hợp đó được xác định là đối tượng phải nộp tiền tạm ứng án phí. Và thẩm phán cũng chỉ thụ lý vụ án khi người khởi kiện đã nộp cho tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật. Sau đó trong khoảng thời gian 03 ngày làm việc được tính kể từ ngày thụ lý thì thẩm phán sẽ thông báo bằng văn bản cho các đường sự, tổ chức và cá nhân có quyền lợi liên quan đến việc giải quyết vụ án và cho viện kiểm sát cùng cấp về việc thụ lý vụ án đó.
Bước 4: Tiến hành hoạt động hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Trong trường hợp đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết tranh chấp thành công thì sẽ lập biên bản hòa giải thành. Trong trường hợp hòa giải không thành công thì sẽ đưa vụ án ra xét xử. Sau khi có bản án sơ thẩm, nếu xét thấy quyền lợi của mình bị xâm phạm thì các bên có quyền lợi liên quan có thể kháng cáo phúc thẩm để giải quyết theo quy định của pháp luật.
2. Nguyên nhân của tranh chấp thương mại liên quan đến ủy thác nhập khẩu:
Ủy thác nhập khẩu hàng hóa theo quy định của pháp luật hiện nay chính là khái niệm để chỉ hoạt động thường xuyên xảy ra tranh chấp giữa bên ủy thác và bên nhận ủy thác, vì suy cho cùng thì hoạt động ủy thác nhập khẩu cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro và mâu thuẫn. Vì thế trong quá trình thực hiện
– Các bên thực hiện hoạt động ủy thác nhập khẩu nhưng không lập thành hợp đồng dưới dạng văn bản hoặc dưới các hình thức pháp lý khác có giá trị tương đương để bảo vệ quyền lợi của chính mình mà chỉ thỏa thuận miệng dựa trên uy tín của đối tác;
– Hợp đồng thương mại liên quan đến hoạt động ủy thác nhập khẩu được ký kết bởi những người không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
– Trong hợp đồng thương mại ủy thác nhập khẩu không quy định trách nhiệm bồi thường và các điều khoản về khắc phục hậu quả, không quy định rõ ràng về thời gian và phương thức bồi thường trong hợp đồng đó;
– Hợp đồng ủy thác nhập khẩu không có điều khoản quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp khi hàng hóa vướng phải các vấn đề liên quan đến thủ tục hải quan;
– Xử lý hàng hóa không được tiếp nhận, tức là pháp luật không có quy định về trường hợp bên ủy thác không được tiếp nhận hàng hóa mặc dù bên nhận ủy thác đã hoàn thành nghĩa vụ của mình được ghi nhận trong hợp đồng, vì vậy các bên nên thỏa thuận chi tiết về nghĩa vụ nhận hàng hóa và trách nhiệm của các bên trong tình huống này cũng như hướng xử lý sao cho phù hợp;
– Hợp đồng thương mại liên quan đến hoạt động ủy thác hàng hóa không có quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên khi tranh chấp phát sinh và vấn đề lựa chọn cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.
3. Những lưu ý để tránh tranh chấp thương mại liên quan đến ủy thác nhập khẩu:
Để tránh những tranh chấp thương mại liên quan đến hoạt động ủy thác thì các doanh nghiệp cần phải lưu ý một số vấn đề cơ bản sau đây trong quá trình ủy thác và nhận ủy thác nhập khẩu:
– Việc ủy thác và nhận ủy thác nhập khẩu phải được thực hiện giữa các thương nhân với nhau theo quy định của pháp luật, các tổ chức và cá nhân Việt Nam không phải là thương nhân theo quy định của pháp luật trên cơ sở hợp đồng được ký kết sẽ được ủy thác nhập khẩu hàng hóa phục vụ cho chính nhu cầu của tổ chức và cá nhân đó;
– Quá trình ủy thác nhập khẩu phải được lập thành văn bản và phải có chữ ký của các bên tham gia để đảm bảo quyền lợi tối đa và những tranh chấp có liên quan;
– Hàng hóa ủy thác nhập khẩu phải là những hàng hóa phù hợp với quy định của pháp luật. Tất cả những loại hàng hóa lưu thông hợp pháp đều có thể trở thành đối tượng của hợp đồng thương mại liên quan đến hoạt động ủy thác nhập khẩu, không được ủy thác nhập khẩu đối với những loại hàng hóa thuộc danh mục hàng cấm nhập khẩu hoặc tạm ngưng nhập khẩu theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bị tắc nhập khẩu hoặc các doanh nghiệp nhận ủy thác nhập khẩu sẽ phải có giấy phép giấy phép nhập khẩu được cấp bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước khi ký hợp đồng ủy thác hoặc nhận ủy thác đối với hàng hóa nhập khẩu theo giấy phép đó.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Luật Thương mại năm 2005;
– Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.