Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều hiệp định thương mại thế giới, đi kèm với đó các tranh chấp thương mại là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên diễn ra trong hoạt động của nền kinh tế thị trường trong bối cảnh toàn cầu hóa. Cùng tìm hiểu cụ thể về những phương thức này.
Mục lục bài viết
1. Tranh chấp thương mại là gì?
Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại. Tranh chấp thương mại thực chất là tranh chấp hợp đồng. Đây là các tranh chấp tài sản phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động thương mại và luôn thuộc quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp.
Tại Điều 3 Luật thương mại 2005 quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.” Theo quy định trên, có thể hiểu: Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hoặc xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại. Theo đó, tranh chấp thương mại gồm những đặc điểm là:
Thứ nhất, về lĩnh vực phát sinh tranh chấp thương mại: Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại. Theo luật thương mại, hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác (Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại).
Thứ hai, về chủ thể tranh chấp thương mại: Tranh chấp thương mại diễn ra chủ yếu giữa các thương nhân với nhau. Tuy nhiên trong một số trường hợp, các cá nhân, tổ chức không phải là thương nhân cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại. Điều này xuất phát từ đặc điểm của từng mối quan hệ thương mại cụ thể. Có mối quan hệ thương mại phải được giao kết giữa các thương nhân với nhau, tuy nhiên cũng có những mối quan hệ thương mại có thể được giao kết giữa thương nhân với các nhân, tổ chức không phải là thương nhân. Khoản 3 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự có quy định về một loại tranh chấp không diễn ra giữa các thương nhân với nhau. Đó là tranh chấp giữa các công ty và thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
Tranh chấp thương mại tiếng anh là “Trade dispute”.
2. Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại:
Phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại là những cách thức, biện pháp được các bên tranh chấp sử dụng để giải quyết tranh chấp trong hoạt động kinh doanh thương mại. Trong thương mại quốc tế, khi soạn thảo hợp đồng quốc tế các bên thường chỉ chú trọng đến các Điều Khoản về thanh toán, chi phí.. mà ít quan tâm đến Điều Khoản giải quyết tranh chấp, các bên nên nhận thức rằng các bất đồng và tranh chấp có thể phát sinh bất cứ lúc nào. Bởi vậy, trong quá trình giao kết một hợp đồng kinh tế quốc tế, các bên cần phải lưu ý quy định việc lựa chọn phương thức giải quyết các tranh chấp nếu tranh chấp xảy ra. Hiện nay có các phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế quốc tế sau: thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và Tòa án.
2.1. Thương lượng:
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc , tự dàn xếp , tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kì bên thứ ba nào. Phương thức giải quyết tranh chấp này được thực hiện bởi cơ chế tự giải quyết thông qua việc các bên tranh chấp gặp nhau bàn bạc, thỏa thuận để tự giải quyết những bất đồng phát sinh mà không cần có sự hiện diện của bên thứ ba để trợ giúp hay ra phán quyết. Quá trình thương lượng các bên cũng không chụi sự ràng buộc của bất kì nguyên tắc pháp lí hay những quy định mang tính khuôn mẫu nào của pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp. Việc thực thi kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của mỗi bên tranh chấp mà không có bất kì cơ chế pháp lí nào bảo đảm việc thực thi đối với thỏa thuận các bên trong quá trình thương lượng.
Ưu điểm của phương thức này là: Tính linh hoạt thông qua việc pháp luật không quy định các thủ tục của tranh chấp mà do các bên tự thương lượng (trực tiếp hoặc gián tiếp) (một buổi hoặc nhiều buổi); Đơn giản, ít tốn kém, không bị ràng buộc bởi những thủ tục pháp lý; Uy tín củng như bí mật kinh doanh được bảo đảm tối đa; Quan hệ hợp tác giữa các bên cũng ít bị ảnh hưởng thậm chí còn tăng cường sự hiểu biết và hợp tác sau khi thương lượng thành công. Thêm vào đó, thương lượng thành công hay không hoàn toàn phụ thuộc sự hiểu biết và thái độ thiện chí hợp tác của các bên tranh chấp. Việc thực thi kết quả thương lượng phụ thuộc hoàn toàn vào sự tự nguyện của các bên có nghĩa vụ phải thi hành.
2.2. Hòa giải:
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ 3 làm trung gian hòa giải để hỗ trơ, thuyết phục các bên tìm kiếm nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh. Có sự hiện diện của bên thứ 3 (do các bên tranh chấp lựa chọn) làm trung gian để giúp cho các bên tìm kiếm giải quyết tối ưu nhằm loại trừ tranh chấp. Quá trình hòa giải các bên tranh chấp cũng không chịu sự chi phối bởi các quy định có tính khuôn mẫu, bắt buộc của pháp luật về hòa giải. Việc thực thi kết quả cũng hoàn toàn phu thuộc vào sự tự nguyện của các bên tranh chấp mà không có bất kì cơ chế pháp lí nào bảo đảm.
Ưu điểm của phương thức này là: Đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, linh hoạt, hiệu quả, ít tốt kém. Ưu điểm hơn so với thương lượng; Có sự xuất hiện của bên chủ thể thứ ba đống vai trò trung gian. Giúp cho chủ thể tôn trọng kết quả hòa giải hơn. Tuy nhiên, hòa giải cũng phụ thuộc vào chính các bên trong tranh chấp . Nếu một bên không trung thực, không thiện chí hợp tác trong quan tòa đàm phám thì hòa giải cũng khó đạt được kết quả như mong đợi; Uy tín cũng như bí mật kinh doanh của mỗi bên dễ bị ảnh hưởng hơn phương thức thương lượng; Chi phí thường tốt kém hơn so với thương lượng; Việc thực thi kết quả hòa giải cũng chủ yếu phụ thuộc vào ý thức tự giác của các bên tranh chấp.
2.3. Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa án:
Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ. Bản án, quyết định giải quyết tranh chấp của tòa án được đảm bảo thi hành bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Đặc điểm của phương thức này là: Thủ tục tố tụng tòa án được dựa trên nền tảng thủ tục Tố tụng dân sự cùng với một số quyết định đặc thù cho phù hợp với hoạt động kinh doanh; Hoạt động xét xử mang tính quyền lực nhà nước; Phán quyết của tòa án được đảm bảo thi hành; Trong tố tụng tòa án, các phiên tòa xét xử thường được tổ chức công khai, bản án được công bố rộng rãi
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng tòa án theo Điều 3 đến Điều 25
– Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng tòa án: Những tranh chấp được quy định trong Chương III-
Phương thức giải quyết tranh chấp bắng con đường tòa án có những ưu nhược điểm như sau: Nếu như việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài mang đặc điểm tôn trọng quyền thỏa thuận hay ý chí của các bên tham gia để đưa ra phán quyết thì đặc trưng cơ bản của thủ tục giải quyết tranh chấp bằng tòa án là thông qua hoạt động của bộ máy tư pháp và nhân danh quyền lực nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế. Nhờ đó, việc giải quyết tranh chấp thương mại thông qua tòa án còn trực tiếp góp phần vào việc nâng cao ý thức, tôn trọng pháp luật cho các chủ thể kinh doanh. Tuy nhiên, thủ tục giải quyết tranh chấp thông qua tòa án thường dài hơn so với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Hơn nữa) nguyên tắc xét xử công khai tại tòa án không phù hợp với tính chất của hoạt động kinh doanh và tâm lý của giới doanh nghiệp. (có thể làm sút giảm uy tín của các bên trên thương trường; lộ các bí mật kinh doanh…), ngoài ra) bản án xét xử xong chưa được thi hành ngay mà các bên có quyền kháng cáo khiếu nại nên thời gian kéo dài.
2.4. Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài thương mại:
Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp Kinh doanh thương mại theo đó các bên thỏa thuận thành lập ra một hội đồng trọng tài hoặc cử ra một trọng tài viên duy nhất nhằm giải quyết tranh chấp thương mại giữa các bên. Giải quyết tranh chấp Kinh doanh thương mại được tiến hành theo trình tự thủ tục tố tụng do pháp luật tố tụng thương mại quy định. Phương thức này luôn có sự tham gia của bên thứ 3 là một hội đồng trọng tài hay một trọng tài viên do các bên thỏa thuận lựa chọn đóng vai trò là trung gian, phán xét một cách công tâm trong quá trình giải quyết tranh chấp. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài viên và các bên đương sự sẽ phải tôn trọng theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật trọng tài, Điều lệ và quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài quyết định. Phán quyết trọng tài là sự kết hợp linh hoạt giữa yếu tố thỏa thuận và yếu tố tài phán.
3. Các hình thức trọng tài như sau:
– Trọng tài vụ việc: Là phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để giải quyết vụ tranh chấp, trọng tài sẽ chấm dứt tồn tại khi giải quyết trong vụ tranh chấp đó.
– Trọng tài thường trực (quy chế): Là hình thức giải quyết tố cáo trong đó các bên lựa chọn 1 hội đồng trọng tài hoặc 1 trọng tài viên duy nhất của trung tâm trọng tài để giải quyết tố cáo kinh doanh thương mại.
Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài quy định tại Khoản 2 Điều 3
– Nguyên tắc trọng tài viên phải độc lập, khách quan vô tư và tuân theo pháp luật. Khi tham gia giải quyết tranh chấp thương mại, trọng tài viên phải thật sự là người thứ 3 độc lập, vô tư, không liên quan đến các bên có tranh chấp cũng như có bất kì lợi ích nào dính dáng đến vụ tranh chấp đó. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài viên phải căn cứ vào pháp luật. Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận hợp pháp của các bên. Thẩm quyền của hội đồng trọng tài/ trọng tài viên duy nhất là do các bên giao cho, vì vậy các trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận hợp pháp của các bên tranh chấp. Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng trọng tài. Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo Điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình (Khoản 3 Điều 4
– Nguyên tắc giải quyết không công khai là giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được tiến hành không công khai trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác (Khoản 4 Điều 4 Luật Trọng Tài Thương Mại 2010).
– Nguyên tắc giải quyết một lần: Phán quyết của trọng tài là chung thẩm quyền và có hiệu lực từ ngày ban hành (Khoản 5 Điều 4, Khoản 5 Điều 61 Luật Trọng Tài Thương Mại 2010).
Đây là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại phổ biến nhất với những ưu điểm như sau:
– Trọng tài tôn trọng ý chí thỏa thuận của 02 bên tranh chấp
Theo quy định tại Điều 38
– Thủ tục nhanh chóng, linh hoạt
Phán quyết của trọng tài là quyết định chung thẩm, trọng tài chỉ xét xử một lần và đưa ra quyết định có hiệu lực ngay. Đây là đặc điểm dùng để phân biệt giữa phương thức Trọng tài Thương mại và Tòa án. Trong phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án, quyết định cuối cùng của Hội đồng xét xử còn có thể bị kháng cáo, kháng nghị lên Tòa án cấp trên. Tòa án có nhiều cấp xét xử, từ sơ thẩm đến phúc thẩm, trong một số trường hợp còn có thể được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc xét xử qua nhiều cấp như vậy trong phương thức Tòa án cũng tạo nên một hạn chế nhất định cho các nhà kinh doanh đó là đôi khi có thể dẫn đến kéo dài thời gian xét xử, thời gian thi hành án, đây có thể là Điều mà các nhà kinh doanh không mong muốn.
Quy trình của tố tụng Trọng Tài cũng linh hoạt cho thời gian và lịch làm việc của các bên và năng động hơn so với toà án do trọng tài chỉ chịu sự Điều chỉnh của Quy Định của từng Trung Tâm Trọng Tài và Luật Trọng Tại Thương Mại 2010.
Trong thủ tục trọng tài, tính mềm dẻo, linh hoạt thể hiện rất rõ ở mỗi giai đoạn, thể hiện tính thuận tiện, dễ dàng tiến hành theo ý chí của các bên tranh chấp. Ví dụ như: khi đơn khởi kiện được nhận, các bên tranh chấp đều có quyền lựa chọn Trọng tài viên theo sự tín nhiệm của mình, lựa chọn hoặc thỏa thuận địa điểm giải quyết, đây là ưu điểm linh hoạt hơn trong phương thức trọng tài với Tòa án. Ngoài ra) Trọng tài Thương mại còn khác ở phương thức Tòa án về mặt Điều kiện khởi kiện hoặc trong nguyên tắc xét xử tập thể của Tòa án.
– Bảo mật thông tin
Theo quy định tại Khoản 4 Điều 4 Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 thì giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài Thương mại được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Khác với nguyên tắc tố tụng của Tòa án là xét xử công khai được quy định tại Điều 15 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Như vậy, tất cả bí mật thông tin của các bên được giữ kín trong cả quá trình giải quyết, ngay cả khi có phán quyết cuối cùng cũng không được công khai nếu như không có yêu cầu của các bên. Đây được xem là một ưu điểm lớn của phương thức Trọng tài Thương mại, góp phần đáp ứng như mong muốn của các nhà kinh doanh khi muốn giữ bí mật thông tin hoặc uy tín của doanh nghiệp mình. Trong tố tụng Tòa án, hầu như các phiên xét xử đều công khai, hội đồng xét xử ra bản án, quyết định cũng phải công khai trước công chúng, tối kỵ đặc biệt khi có sự tham gia của truyền thông và người dân và khi có liên quan tới các thông tin mật của doanh nghiệp. Việc bảo đảm bí mật của trọng tài cũng sẽ tránh cho các bên nguy cơ làm tổn thương đến mối quan hệ hợp tác làm ăn vốn có, trong khi đó việc xét xử công khai tại toà thường làm cho các bên rơi vào thế đối đầu nhau và một bên được coi như là người chiến thắng còn bên kia là thua cuộc.
– Cơ quan trọng tài trung lập, chuyên môn trọng tài viên cao
Tòa án là cơ quan xét xử của Nhà nước, là cơ quan tư pháp trong hệ thống bộ máy nhà nước ta) Tòa án nhân danh quyền lực Nhà nước để xét xử, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Tòa án hoạt động vì mục đích duy trì, ổn định trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân theo Hiến pháp. Bên cạnh đó, Trọng tài Thương mại lại là cơ quan mang tính chất phi chính phủ, không nằm trong bộ máy nhà nước và hoạt động phi lợi nhuận. Các trung tâm trọng tài không phải là một cơ quan xét xử của Nhà nước mà là một tổ chức xã hội, nghề nghiệp. Luật trọng tài thương mại vẫn giữ lại hầu hết các quy định về Trọng tài viên. Theo đó, chúng ta có thể hiểu rằng “Trọng tài viên là người được các bên lựa chọn hoặc được Trung tâm trọng tài hoặc Tòa án chỉ định để giải quyết tranh chấp theo Luật Trọng tài Thương mại năm 2010”. Để trở thành Trọng tài viên thì mỗi cá nhân phải đáp ứng được các tiêu chuẩn, Điều kiện, quyền và nghĩa vụ mà Luật Trọng tài Thương mại quy định- Phán quyết của trọng tài được công nhận, thi hành phán quyết trọng tài.
Tuy nhiên, phương thức này có những hạn chế sau:
– Chi phí trọng tài cao
Trong thực tiễn tình hình nước ta hiện nay, chi phí cho việc giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng trọng tài tương đối lớn hơn so với giải quyết bằng con đường tòa án. Tham khảo một số biểu phí của các trung tâm Trọng tài ta có thể thấy rằng biểu phí để tính vào các vụ tranh chấp là khá cao theo biểu giá dịch vụ trọng tài của VIAC, mức giá thấp nhất là 15.000.000 đồng cho việc giải quyết một tranh chấp; trong khi mức án phí dân sự thấp nhất chỉ 200.000 đồng. Theo một số kết quả phân tích, ta có thể thấy rằng số lượng các doanh nghiệp lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài Thương mại là những doanh nghiệp có vốn kinh doanh lớn từ 200 tỷ trở lên. Như vậy đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ dù muốn cũng khó có thể chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
– Việc Điều tra) xác minh chứng cứ, áp dụng các biện pháp khẩn cấp mất nhiều thời gian hơn so với Tòa án
Trọng tài không phải cơ quan được giao quyền lực cưỡng chế của nhà nước, nên, trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu xuất hiện trường hợp cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, trọng tài không thể ra quyết định mang tính chất bắt buộc thực hiện mà phải yêu cầu tòa án thực hiện thay theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự (Điều 50, 51, Luật trọng tài thương mại 2010). Điều này khiến việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp mất thêm thời gian, không kịp thời và có thể tạo cơ hội cho một bên thực hiện một số hành vi gây ảnh hưởng bất lợi cho quá trình tố tụng và thi hành phán quyết sau này.
Trọng tài viên gặp rất nhiều khó khăn trong việc Điều tra) xác minh, thu thập chứng cứ và triệu tập nhân chứng . Tuy pháp luật có quy định trong các Điều 45, 46, 47 Luật TTTM 2010 nhưng quyền của họ chỉ dừng lại ở “yêu cầu” còn việc cung cấp hay không thì phụ thuộc vào sự tự nguyện và thiện chí của các bên tranh chấp và người làm chứng.
– Phán quyết của trọng tài có thể bị yêu cầu tòa án xem xét lại
Theo Điều 68 Luật trọng tài thương mại 2010, phán quyết trọng tài có thể bị hủy khi có đơn yêu cầu của một bên. Mặc dù trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp nhanh gọn có nhiều ưu điểm song không ít có ý kiến cho rằng họ e ngại việc phán quyết của trọng tài bị Tòa án hủy.
– Việc thực hiện các phán quyết của trọng tài phụ thuộc phần lớn vào ý thức tự nguyện của các bên
Điều này thể hiện trước nhất ở Điều 65 Luật trọng tài thương mại 2010, khi Nhà nước khuyến khích các bên tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài. Chỉ khi một bên không tự nguyện thi hành phán quyết của trọng tài trong thời hạn và cũng không yêu cầu hủy phán quyết thì bên còn lại mới có quyền yêu cầu cơ quan thi hành dân sự thi hành phán quyết trọng tài. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài, uy tín của doanh nghiệp được đặt lên hàng đầu do đó việc họ tự giác thực hiện các quyết định của trọng tài khá cao. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước hiện nay vẫn chưa coi trọng việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, nên vẫn chưa có ý thức tự giác, dẫn đến số phán quyết trọng tài bị yêu cầu hủy và không được thi hành chiếm tỷ lệ lớn.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
–
– Luật thương mại 2005, sửa đổi bổ sung 2019;
– Luật quản lý ngoại thương 2017;
– Luật trọng tài thương mại 2010.