Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất năm 2000. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất năm 2000. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Tóm tắt câu hỏi:
Vào năm 2000, Ba tôi có hứa cho Chú út tôi 01 cái nền nhà để cất ở. Chú tôi có đóng tiền đan lộ 600.000đ và mang 08 cây xoài vào trồng và có cất trại nhỏ để đó chứ không ở vì có nhà kiên cố chỗ khác, cũng không khai thác xoài mà bỏ lâm địa. Vài năm sau trại sập, chú tôi cũng không cất lại trại, giờ chết chỉ còn 02 cây xoài. Năm 2006, chú tôi kêu ba tôi cắt sổ đỏ, nhưng do chú tôi đòi nhiều quá, hơn 400m vuông, vả lại ba tôi sợ chú ấy bán khi có sổ nên ba tôi quyết không cắt sổ đỏ cho chú tôi. Năm 2012, ba tôi và chú ấy bất hòa và đã từ nhau không tới lui. Hiện nay, chú tôi kêu ba tôi cắt sổ đỏ, ba tôi không cắt và hai gia đình đang tranh chấp. Do vậy, nay chú đã gửi đơn lên Tòa án Huyện. Vậy trong trường hợp này, ba tôi phải làm gì để toàn quyền lấy lại nền nhà thuộc quyền sở hữu của ba tôi? (trong khi chú ấy hưởng hết hương quả của nội tôi, còn đất đó do ba tôi tự khai phá và mua lại của người khác). Xin chân thành cám ơn Quý vị. Rất mong được trợ giúp từ quý Luật sư của Công ty Luật Dương Gia, gia dình tôi thành thật biết ơn!
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý
2. Nội dung tư vấn
Điểm 2.3 Điều 2 Mục II Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP quy định như sau:
“2.3. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ sau này 15/10/1993
a. Điều kiện để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Theo qui định tại Điều 131, các điều từ Điều 705 đến Điều 707 và Điều 711 của Bộ luật Dân sự, khoản 2 Điều 3, Điều 30, Điều 31 của Luật Đất đai năm 1993 và khoản 1 Điều 106, điểm b khoản 1 Điều 127, khoản 1 Điều 146 của “
”, thì Toà án chỉ công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi hợp đồng đó có đầy đủ các điều kiện sau đây: Luật đất đai năm 2013a.1. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có năng lực hành vi dân sự;
a.2. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoàn toàn tự nguyện;
a.3. Mục đích và nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không trái pháp luật, đạo đức xã hội;
a.4. Đất chuyển nhượng đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, “
”; Luật đất đai năm 2013a.5. Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện về nhận chuyển nhượng theo qui định của pháp luật;
a.6. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền.”
>>> Luật sư tư vấn về quyền sử dụng đất qua tổng đài: 1900.6568
Như vậy, theo quy định trên, đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập sau ngày 15/10/1993 thì phải được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền.
Đối chiếu theo quy định trên vào trường hợp của ba bạn, năm 2000, ba bạn có hứa cho chú Út của bạn nền đất để xây nhà ở, tuy nhiên, chỉ là hợp đồng bằng lời nói, không có văn bản có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền; nên hợp đồng tặng cho đất này sẽ không được công nhận.
Trong trường hợp này, để lấy lại nền nhà thuộc quyền sở hữu của ba bạn, thì ba bạn có quyền khởi kiện yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu; hoặc khởi kiện yêu cầu đòi lại quyền sử dụng đất theo sổ đỏ mà ba bạn được cấp.